Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1357865

Mang Lấy Ách

Mang lấy ách

Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland. “Mới sinh ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là ‘dysautonomic mitochondrial myopathy’”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular dystrophy. Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường xuyên bên cạnh. Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo. Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại. Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ”.

“Em có ba ước mơ: thứ nhất là xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em là cựu tổng thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất hiện trong chương trình truyền hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa đề là “Heartsongs”. Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc. Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình truyền hình “Good Morning America”. Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong chương trình truyền hình Oprah.

Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình CNN. Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm. Trả lời câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói: “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống được. Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng”. Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi”. Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi. Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận”.

Đề cập đến sự kiên trì phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu: “Đôi khi, cháu tự hỏi: Tại sao lại là cháu? Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này? Tại sao mấy anh chị em của cháu lại chết? Tại sao bệnh không lành? Nhưng rồi cháu nghĩ lại và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ? Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó. Hoặc là cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể còn đau khổ hơn”.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta. Phải chấp nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.

Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.

Theo William Barclay, Chúa Giêsu nói, “Ach của Ta thì êm ái”. Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos” có nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng gỗ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng con. Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.

Có một huyền thoại cổ kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy, các cửa tiệm cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ach Ta rất vừa vặn”.

Chúa Giêsu nói: “Ach của Ta thì êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh nặng làm tổn hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con rồi”. Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.

Chúa Giêsu nói: “Gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói: “Gánh của tôi đã trở nên bài ca của tôi”. Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang vác; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu. Nó sẽ được mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết khó nhọc”.

 


Mang lấy ách

Có một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang”. Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu”. Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng!

Trong chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng mình? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.

Con người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời! Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người”. Chúng ta không mang vác một mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.

Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.

Cái ách ở thế kỷ thứ nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau. Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng ta để cùng mang vác với chúng ta.

 


Gánh nặng

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.

Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.

Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.

Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.

Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.

Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.


Số không

Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh, đem về phổ biến cho dân gian.

Trên cuộc ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.

Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, phải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “Bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.

Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chông chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.

Đức Giêsu còn tha thiết mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hằng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ ra nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.

Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.

Thánh Augustinô nói: “Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”. Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Kẻ kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”. Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng vô cùng.

Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy chúng ta hãy sống hiền lành và khiêm nhường; là Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu chuộc con người.

Người không lên án người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.

Người không khiến lửa trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.

Người ví mình như người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.

Người xem mình như mục tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.

Người xin Cha tha thứ cho những kẻ lăng nhục, hành hạ và đóng đinh Người.

Tột đỉnh của sự hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập giá. Chiều thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.


Chướng ngại

Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.

Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?

Cụ già thản nhiên đáp:

- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:

- Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.

Cụ già khiêm tốn hỏi:

- Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?

Anh sinh viên hăng hái trả lời:

- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.

Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.

Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.

Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.

Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?

 


Hiền lành

Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.

Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.

Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.

Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.

Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.

Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.

Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.


Hãy đến với Ta

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng trong lương tâm của ta.

Tin ở tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.

Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.

Trong sứ điệp gởi cho vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.

Lời tuyên bố trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.

Lời cầu nguyện này được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.

Vì vậy, chỉ còn lại những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".

Thật vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.

Lý luận của đức tin, của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.

Kitô giáo chúng ta không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là cái nhìn của Ngài.

Thánh Phaolô đã diễn tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết của tình yêu.

Chúng ta đang tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các ngươi".

Nguyện xin sức sống của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".

home Mục lục Lưu trữ