Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1360554
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là nền tảng của đạo Ki-tô”.
Xh 22: 20-26
Bài Đọc I trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Bài Đọc II tiếp tục trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh nhân khích lệ tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an (Đất Hứa). Vì thế, bộ luật này có thể được ấn định niên biểu vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là bộ luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh hư cấu văn chương: “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en” để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn tiếp nối tinh thần Luật Mô-sê và chỉ khai triển Luật Mô-sê.
Về phương diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu ngươi làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Về phương diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra bảo đảm luật, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1). “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu ra là tính lịch sử: “Vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông thời xưa không bao giờ nêu ra nguyên do của các luật được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2). “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngõ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa, Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi: “Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu”. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành mẹ góa con côi.
3).Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm không được cho anh chị em đồng bào của mình vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em đồng bào mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em đồng bào nầy. Phải ghi nhận rằng luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” mở rộng đến hết mọi người, bởi vì “Tứ hải giai huynh đệ”.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị: người nghèo cần áo choàng làm chăn đắp ban đêm, vì thế “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bảo đảm luật yêu thương tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1).Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình cùng với những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh Phao-lô sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà thánh nhân dành cho họ. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca là “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà thánh nhân vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Ki-tô” (1Cr 11: 1) và cho các tín hữu Phi-líp-phê nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
2).Tấm gương của các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải trải qua biết bao gian truân, vẫn cảm thấy niềm vui vì họ thấy thành quả Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng cho mọi người: “Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
3).Lương dân đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì lương dân mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn những điều cốt yếu trong lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng của thánh nhân theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công Vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh tranh luận của những người Pha-ri-sêu với Chúa Giê-su.
1).Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Trong muôn vàn giới luật nầy, làm thế nào nhận ra giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
2).Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người; Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn; cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng kiện toàn bằng cách đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18).
Như vậy, Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ.
Trước hết, giới luật yêu người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” được Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn này”.
3).Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Ki-tô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’
mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
YÊU THƯƠNG LÀ ĐIỀU RĂN QUAN TRỌNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Những khoản luật dạy đối xử yêu thương đối với những thành phần nghèo khổ trong xã hội.
– Đáp ca : Bày tỏ lòng yêu mến Chúa.
– Tin Mừng : Hai giới luật quan trọng nhất và giống nhau, đó là mến Chúa và yêu người.
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.
Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người do thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.
Đoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Đá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.
Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.
Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Đức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.
Câu hỏi là : “Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất”. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo do thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.
Câu trả lời của Đức Giêsu rất xuất sắc : một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người ; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại : mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa ; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy – mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương – là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.
Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Đoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
Đúng là hai điều răn : điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình… Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.
Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người ! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc : “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời… Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc ! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất ; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người… Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.
Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo…
Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp ; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật ; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp… ! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến ? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta ?
Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không ? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến :
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất : thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay có ai mà không thích điều đó không ? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi… Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai : thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là : lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.
Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.
Ngày ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ ? Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng ? Nhưng bạn hãy coi chừng ! Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.
Còn trình độ thứ ba : Yêu (aimer), có thế thôi ! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì… Ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của “tình cho không biếu không”.
Hãy nhìn nhận điều này : ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.
Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là : Yêu mến. (H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)
Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” ; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ “như chính mình ngươi”.
“Hết” là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ do thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể : “lòng” cũng có nghĩa là cả con người, “linh hồn” và “trí khôn” cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là : “Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình.” Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là : “Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình”.
“Như chính mình” nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.
Tóm lại, những chữ đi sau động từ “yêu” nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi”. Có thể hiểu là : hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.
Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi :
– Dân trong thành này là người thế nào ?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào ?
– Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi :
– Dân trong thành này là người thế nào ?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào ?
– Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.
Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình ? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý : Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào ? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)
Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.
Đến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Đang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi :
– Thầy đã phạm luật !
Thầy Môsê khiêm tốn trả lời :
– Đúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.
Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.
Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.
Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.
Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)
CT : Anh chị em thân mến
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.
2- Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc / ; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.
3- Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.
4- Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT : Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết “Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa”. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin…
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam