Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 72
Tổng truy cập: 1359524
MẾN THÁNH GIA CHÚA TRONG ĐỜI
MẾN THÁNH GIA CHÚA TRONG ĐỜI
Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ngày 09/11/2011, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật vẫn giữ nguyên dòng chữ IN GOD WE TRUST (chúng tôi tin vào Thiên Chúa) trên những tờ tiền đô của Mỹ và cho treo thánh giá ở tất cả các văn phòng công sở, trường học trở lại… Tại sao trước đây lại bỏ việc treo Thánh giá ở những nơi này? Sao bây giờ lại cho treo, đảng Dân chủ cho rằng Thánh giá là biểu tượng tình yêu cao quý nhất và cũng là nguồn mạch mọi ơn mà chúng ta cần có nhất là trong thời gian này vì nước Mỹ đang rơi vào khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất từ trước đến nay (2011). Qủa thế, Thiên Chúa luôn ban ơn cho con người qua Thánh giá Chúa Giêsu cho muôn ngàn thế hệ con người Mỹ, người Mỹ đã xác tín điều đó qua dòng chữ “IN GOD WE TRUST” trên tờ tiền của mình kể từ khi chúng ra đời cho đến hôm nay, chúng không chỉ có mặt trên Nước Mỹ mà còn khắp cả thế giới. Cho nên, trong bài diễn văn nhậm chức, Tổng Thống Abama nói rằng: “Mỗi một người Mỹ sinh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào đều có cơ hội thành công như bất cứ ai khác bởi vì họ có tự do, bình đẳng, tình yêu không chỉ trong mắt Thiên Chúa mà còn trong mắt của chính chúng ta. Cầu xin Thiên Chúa phù hộ và mong Người mãi mãi phù hộ cho chúng ta”. Còn Tổng tổng Donal Trump trong lễ nhậm chức nói rằng: “Bất cứ người Mỹ nào sinh ra đều nhìn lên một bầu trời đêm, mang trong mình những giấc mơ giống nhau và cùng được trao hơi thở sự sống bởi cùng một Đấng Tạo hóa Toàn năng. Cảm ơn, Thiên Chúa phù hộ chúng ta và nước Mỹ chúng ta”.
Đâu phải Thánh giá là nguồn mạch ơn cứu rỗi bây giờ nên bây giờ đảng Dân chủ Mỹ công nhận? Nguồn ơn cứu rỗi có từ khi Chúa Giêsu chết trên thánh giá và sống lại hiển vinh. Thánh Giá là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người khi Chúa Giêsu, Con của Ngài chịu chết trên đó. Cho nên, Thánh Giá không chỉ là huy hiệu của người tín hữu, là dấu chỉ của người thuộc về Chúa Kitô; nhưng trên hết, Thánh Giá là hiện thân ơn cứu độ, là phương thế Thiên Chúa ban muôn ơn cho con người qua muôn thế hệ. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá, Chúa Giêsu đã bước vào cõi chết để đưa con người trở về cuộc sống. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá Chúa Giêsu đã hiến mình làm của lễ đền tội cho nhân loại, làm cho con người được hòa với Thiên Chúa và với nhau. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn, máu Chúa đổ ra như nguồn mạch ban ban phát mọi ơn lành. Vì lẽ đó, vượt qua thời gian và không gian, Thánh Giá luôn luôn là dấu hiệu bất khả phân ly đối với người tín hữu, Thánh Giá luôn luôn là biểu hiệu cho đức tin, là niềm vinh dự của những người thuộc về Chúa Kitô vì chưng Thanh giá là nguồn mạch sức sống cho chúng ta ngay đời này và đời sau. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay khẳng định rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”
Vì vậy, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã khước từ xúc phạm bước qua hay đạp lên Thánh giá dù phải chịu những cực hình dã mang, kinh tởm nhất. Ví dụ, Thánh Anrê Kim Thông dù chịu tử đạo là chết rũ tù tại Mỹ tho, Ngài vẫn can trường nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Ngài bị xử trảm (chém đầu) 1861 dưới thời Vua Tự Đức. Rồi Thánh Giuse Phạm Tòng Tả cũng vậy cho dù bị xử giảo (treo cổ) quyết không bước qua thánh giá. Kinh khủng hơn nữa là thánh Nicôla Bùi Ðức Thể, là Giáo dân dù bị xử lăng trì (tùng xẻo, bá đao) dưới đời vua Minh Mạng, quyết không đạp lên thánh giá.
Lúc đối diện với Thánh Giá, chính là lúc các Thánh tử đạo Việt nam đặt mình trước làn ranh của sự sống và sự chết, giữa tin và không tin, giữa vinh quang thế trần và vinh quang thiên quốc, giữa hạnh phúc tạm bợ đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Thế nhưng, các Ngài vẫn chọn Chúa làm gia nghiệp nên tín trung với Chúa, yêu Chúa và mến Thánh giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng giữa trăm ngàn khổ cực thân xác. Vì chưng, Thánh Giá luôn là niềm vinh dự và là nguồn sức mạnh ban muôn ơn cho các Ngài trong cuộc sống. Vì thế dù mỗi vị thánh một hoàn cảnh, mỗi vị thánh một cực hình, nhưng Thánh Giá đã trở nên mẫu số chung cho các Ngài, trở thành niềm hy vọng bất diệt, nguồn sức mạnh và nguồn sức sống cho các Ngài để rồi sẵn sàng tử đạo đổ máu mình ra làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,25).
Lòng yêu mến Thánh Giá của Thánh tử đạo Việt nam đã làm nên bản trường ca hào hung xuyên suốt dòng lịch sử của Hội Thánh Việt Nam. Cái chết vì yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến thánh giá của các Ngài đã trở thành bài ca khải hoàn, bài ca chiến thắng, bài ca ngàn trùng diễn tả lòng tín trung sắt son của các Thánh Tử Đạo. Các Ngài đã ngã xuống để muôn ngàn người hiên ngang đứng lên trong tình yêu và sự thật. Thân xác các Ngài vùi sâu trong lòng đất nhưng máu các Ngài đổ ra để bao người qua bao thế thế được sinh ra và lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa.
Mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta có thể khẳng định rằng các Ngài chính là những con người luôn thiết tha say mê mến thập giá Chúa Giêsu, qua việc các Ngài luôn sẵn sàng vác Thánh Giá trong bậc sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu và cho Tin Mừng. Với các ngài: mến Thánh Giá là yêu mến con đường Chúa Giesu đã đi. Mến Thánh Giá là yêu mến chính Đấng chịu treo trên thập giá. Mến Thánh Giá chính là trở nên người môn đệ tín trung của Chúa. Và Mến Thánh Giá được thể hiện cách cụ thể qua việc từ bỏ ý riêng, bước vào con đường hẹp, sống theo ý Chúa trong hoàn cảnh của bậc sống mình.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay, không thiếu gì thập giá: thập giá trong công ăn việc làm, thập giá trong bậc sống vợ chồng, con cái, thập giá tuổi già, thập giá của bệnh tật… nhưng người môn đệ của Chúa Giêsu không có con đường nào khác ngoài con đường yêu mến và vác lấy thập giá đời mình theo Chúa: từ bỏ tội lỗi, hy sinh, đồng lao cộng khổ với tha nhân, với chính mình và với Chúa trong mọi hoàn cảnh để vui lòng chấp nhận tất cả trong mọi thử thách ấy và nói như Lời Chúa trong bài đọc 2 rằng chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Cho nên, vì mến Thánh giá Chúa, chúng ta đừng vì tham lam tiền bạc, ham mê tính xác thịt mà chà đạp hay bước qua Thánh giá: phạm tội hay bỏ Chúa, bỏ tha nhân mà uổng giá máu Chúa đổ ra để tất cả mọi người được nên thánh và cứu độ.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay và nhờ lời cầu nguyện của các Thánh Tử Đạo Việt nam, xin Chúa cho chúng ta luôn can trường bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá để làm chứng cho Chúa, cho sự thật, cho Tin Mừng. Đồng thời biết yêu mến Thánh giá trong cuộc đời mình bằng việc bình an đón nhận những nghịch cảnh, những trái ý…và như thế, Lời Chúa trong bài đọc một nói với chúng ta rằng phúc cho chúng ta là những người trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. Với niềm tin đó, chúng ta cùng nhau tuyên xứng đức tin.
15.Bách hại
Cuộc sống càng văn minh thì lại càng tạo ra nhiều nhu cầu, và dường như con người mỗi ngày một bị trói buộc vào trong những tiện nghi vật chất.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn như báo chí, truyền thanh và truyền hình. Những người quen đọc báo hay nghe truyền thanh. Một ngày không cầm lấy tờ báo, một ngày không mở cái đài thì xem như nó trống trải thiếu thốn thế nào ấy. Hay như gia đình chúng ta mới tậu được cái tivi, thì tối nào cũng vậy, chúng ta vội vã thanh toán những chuyện lỉnh kỉnh cho xong để rồi được thảnh thơi ngồi xem. Nếu bỏ qua một chương trình nào thì chúng ta lại cảm thấy tiêng tiếc. Nhu cầy này nẩy sinh ra nhu cầu khác, khiến con người cố gắng tìm tiềm kiếm bạc để được thoả mãn. Từ nhà lầu xe hơi, đến tivi tủ lạnh, những tiện nghi vật chất này đôi khi trở thành những loại tượng thần chi phối và làm chủ toàn bộ cuộc đời chúng ta.
Tại nhiều thành phố lớn, người ta sống một cách thừa thãi, không bao giờ biết đến cái đói là chi và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến những người khác đang vất vả, đang đau khổ, đang túng thiếu tại các nhà tù, tại các hầm mỏ, tại các nhà thương. Và hơn thế nữa còn có biết bao nhiêu người hiện giờ đang bị bách hại, đang bị ghét bỏ vì danh Đức Kitô. Điều này khiến cho chúng ta nhớ tới lời thánh Gioan đã cảnh giác: Anh em đừng ngạc nhiên nếu như anh em bị thế gian ghét bỏ. Đúng thế, dưới cắp mắt thế gian, thì người Kitô hữu chúng ta đã trở nên một cái gì kỳ dị, nhiều khi chúng ta đã trở thành những đề tài cho người ta bôi bác, đả kích, bài xích. Phải chăng âm vang lời Chúa từ ngàn xưa vẫn còn là một sự thật: Nếu họ ghét bỏ Thầy thì họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Mỗi khi đi qua nhà thờ chúng ta ngả mũ bái chào Chúa. Mỗi khi gặp linh mục đưa Mình Thánh cho kẻ liệt chúng ta thinh lặng cung kính tôn thờ. Có thể là chúng ta quỳ gối. Trước thái độ này, những người ngoại cho là kỳ dị, họ không thể hiểu nổi vào một thời buổi văn minh như hiện nay mà còn có những người làm những hành động như thế. Họ nghĩ vậy vì họ không hiểu. Họ cho chúng ta là lập dị, là kỳ cục, là chậm tiến. Đó cũng là điều dễ hiểu. Thế gian nhận biết những kẻ thuộc về họ, với cách thức suy tư, hành động và hưởng thụ như họ. Thế nhưng một khi đụng đầu với những kẻ tin vào một thế giới khác, cao cả hơn, thánh thiện hơn thì họ lại cho đó là điều kỳ cục. Ngày nào mà người Kitô hữu không còn làm cho thế gian ngạc nhiên và đặt vấn đề, thì chúng ta đã phản lại sứ mạng của chúng ta. Người Kitô hữu lúc bấy giờ sẽ bị xếp vào hàng những kẻ thuộc về thế gian. Họ cố gắng xoá bỏ những điểm dị biệt với thế gian và che giấu cái sự thực của riêng mình. Mặc dù bên ngoài họ vẫn đi tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, nhưng bên trong tinh thần đức tin đã tắt ngấm từ lâu.
16.Bách hại
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat, xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ Hiện Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình Gioan chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu muốn sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì thế các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao giảng vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa Nguyễn, trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin. Trên 130.000 người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có 117 vị đã được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi tới kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như tại những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời sống đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách bắt bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng người ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi nghĩ sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự tốt và sự xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta mới hy vọng chiến thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy đã chết nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu chân của các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng cũng hãy dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
17.Tử đạo trong thời đại mới
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
Hằng năm, chúng ta mừng lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúng ta hãnh diện và tự hào về những gì cha ông chúng ta đã sống và hành đạo. Và đây cũng là dịp nhắc nhớ chúng ta về sự hy sinh, đau khổ của các ngài phải chịu đựng đau đớn bởi gông cùm, xiền xích, gươm giáo, đầu rơi, máu chảy. Chết cho niềm tin, các ngài trở thành tấm gương sáng cho chúng ta về đời sống đức tin hôm nay.Tuy nhiên, với trong bối cảnh xã hội ở thế kỷ 21, chúng ta ít được chứng kiến với những cuộc bắt đạo hay cuộc hành hình tàn bạo như ngày xưa, nhưng không có nghĩa là chúng ta không có những con người và những vị anh hùng tử đạo. Việc cấm bắt đạo có thể dưới những hình thức khác nhau. Sự tự do tín ngưỡng vẫn còn bị đàn áp và khống chế, người Ki-tô hữu đang phải chịu áp bức và đau khổ bởi cơ chế xã hội và con người.
Ngày nay, khái niệm tử đạo được hiểu rộng hơn. Tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, cho con người, nhất là những người nghèo khổ đang bị áp bức. Họ chết vì chính Đạo. Chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người bạn tù đã có gia đình trong trại tập trung thời Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin. Nhưng, khi cha được phong thánh vào năm 1982, thì Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: “Cha đã đón nhận cái chêt vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê giống Đức Kitô sao?. Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em.”
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này có những người tử đạo âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các tu sỹ nam nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (TMA. 37).
Các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện, để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá Khóa” dùng Thập giá để vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống, được trả lại tự do với tất cả những gì họ đã mất, được tặng thêm bao phú quý vinh hoa. Nếu không bước qua là phải chấp nhận tù đày và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân là cuộc sống trở nên được an toàn bảo đảm. Có người đã bước qua thập giá, nhưng có nhiều người không bước qua. Có người được khiêng qua Thập giá nhưng họ đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua Thập giá, nhưng sau đó họ lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh Augustino Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt…
Vua Quan đã bày ra trước mặt các ông 10 cây vàng, một tượng Chúa Chịu Nạn và một thanh gươm, rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Đúng vậy, đây là một chọn lựa rất khó khăn giưa cái sống và cái chết. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của người Ki-tô hữu sống đức tin. Như Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua Thánh giá, để quan có cớ mà tha cho, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể chà đạp Đấng mà tôi tôn thờ không? Đứng trước Thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hòa hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu sống trong thời đại này.
Các Thánh Tử đạo là những chứng nhân cho niềm tin và hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết thật đau đớn và khủng khiếp, nhưng các ngài nhìn thấy thế giới mới ở đàng sau cái chết. Các ngài nhìn thấy thiên đàng là nơi sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chính vì thế, tử vì đạo thì không bao giờ là bi đát hay tuyệt vọng. Trái lại, cái chết trong đức tin là sự bình an, vui tươi và hạnh phúc các ngài được gặp Thiên Chúa.
Các Thánh Tử đạo là những chứng nhân dám sống và chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Tuy, chúng ta không được ơn tử đạo giống như các ngài, nhưng chúng ta cũng chết đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi thì chúng ta mới trở nên chứng nhân cho Chúa. Đó là thánh giá hằng trong cuộc sống đời thường khi ta bị coi thường, phỉ báng, kết án, ganh ghét v.v. Làm chứng cho Tin mừng thì trả giá bằng sự hy sinh, chịu đựng, khiêm tốn, chúng ta đón nhận sự đau khổ như là một hình thức tử nạn để chết đi mỗi ngày bởi tội của mình. Khi trả giá cho sự đau khổ càng cao thì lời chứng Tin Mừng càng có giá trị và đáng tin cậy.
Mỗi thời đại có cách làm chứng khác nhau. Chúng ta có thể học được từ các tấm gương cho Tin Mừng của Chúa Ki-tô, như cha Kolbê, Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II là chứng nhân sống động cho chúng ta trong thời đại hôm nay. Hơn nữa, chúng ta cần tìm ra cho mình con đường sống sao cho phù hợp với giá trị Tin Mừng. Ngày nay, với tiện nghi của cải vật chất đang lôi cuốn chúng ta vào cơn xoáy thị trường với hưởng thụ, tiền bạc, khoái lạc và quyền lực., cho nên, ý nghĩa sự tử đạo và làm chứng cho Tin Mừng càng trở nên mờ nhạt.
Là con cháu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hãy tự hào và tiếp nối truyền thống con người Việt, sống và gìn giữ đạo nơi cha ông chúng ta đã sống và làm chứng đức tin cho chúng ta, thì ngày hôm nay chúng ta hãy noi gương các ngài làm chứng Tin Mừng trong môi trường chúng ta đang sống. Thánh giá của Chúa Giê-su là dấu hiệu của một tình yêu dâng hiến và lòng khiêm hạ tận cùng.
Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ban phúc lành cho mọi người chúng con sống chứng nhân Tin Mừng trong đời sống thường ngày. Amen.
18.Dùng thời gian để yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Thiên Chúa là thời gian
Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì “ngàn năm đối với Chúa như một ngày”.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi. Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát Ơn Cứu Rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô, lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi. Nơi Người, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Người. Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Người loài người đạt tới sự sống viên mãn.
Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một Lịch Sử Thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm và thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Người.
Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39-40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1-3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33-37; Lc 17, 22-37; 21, 35).
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Người. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Người hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
2. Thiên Chúa là Tình Yêu
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gioan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay mời mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động.
Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ.
Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Thêxalônica đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban.
Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.
3. Dùng thời gian để yêu thương
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh.
Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan.
Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác.
Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn.
Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai
Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa.
Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa.
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Giá trị đời người không được tính bằng thời gian ngắn hay dài, nhưng ở chỗ mình đã sử dụng nén bạc thời gian, sức khỏe, trí tuệ Chúa ban để phục vụ cuộc sống ra sao. Giá trị ở chỗ mình đã sử dụng thời gian như thế nào, có sinh nhiều ích lợi cho mình, cho tha nhân và cho thế giới hay không.Thời gian qua đi thật mau và chẳng chờ đợi ai. Sống có ý nghĩa là làm cho thời gian hiện tại trở thành yêu thương.
Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu. Amen.
19.Một lần thay cho tất cả – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Đức Giám mục đang kiểm tra một nhóm dự tòng để quyết định xem họ có đủ điều kiện lãnh phép Rửa tội không. Ngài hỏi họ:
- Bằng dấu hiệu nào người ta nhận ra anh chị em là người Công giáo?
Không có ai trả lời. Rõ ràng câu hỏi này làm mọi người bất ngờ. Đức Giám mục nhắc lại câu hỏi. Vẫn lặng thinh. Ngài lập lại câu hỏi một lần nữa, và ngài vẽ một hình Thánh giá để gợi ý cho những người dự tòng biết cách trả lời.
Thình lình, một người trong họ lên tiếng:
- Thưa Đức cha, dấu hiệu đó là tình yêu!
Đức Giám mục giật bắn mình. Suýt chút nữa ngài đã nói “sai”. Rất may là ngài đã kịp nén lại, không bật ra thành lời.
***
Chính bằng dấu hiệu của tình yêu mà người ta nhận ra chúng ta là người Công giáo. Chính vì Tình yêu mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam dám hy sinh máu đào để minh chứng cho lòng trung kiên với Thiên Chúa. Các ngài đã lấy cái chết để bày tỏ một tình yêu sắt son với Thầy Giêsu. Đúng như lời người đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Nếu Con Thiên Chúa đã vui lòng chịu đòn vọt đau đớn và chết một cách nhục nhã trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, thì các thánh Tử Đạo Việt Nam cũng can đảm chịu mọi nhục hình, tra tấn dã man cho đến chết, để đền đáp lại Tình yêu bao la hải hà mà Thầy Giêsu đã tự hiến cho các ngài. Ai cũng muốn sống: sống đẹp, sống lâu, sống sung mãn, không ai muốn chết bao giờ. Nhưng một khi tình yêu dành cho Thiên Chúa đã dâng cao đến tuyệt đỉnh, thì các ngài coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Các ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống để mình chứng cho một Tình yêu cao cả, một “tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên thập giá, các Thánh Tử Đạo Việt Nam vô cùng tôn kính thánh giá Chúa. Không một khổ hình nào, không một cám dỗ nào, cho dù là cái chết cũng không thể di chuyển đôi chân các ngài tự ý bước qua thánh giá. Đứng trước thánh giá là một thách thức nặng nề, một áp lực kinh hoàng đè nặng trên tâm trí các ngài. Hoặc là bước qua để được sống với gia đình, an nhàn sung sướng, có khi còn được cho thêm bổng lộc. Hoặc là không bước qua để rồi phải chịu dí sắt nung đỏ lên mặt hai chữ “tả đạo”, phải chịu tù đày, đòn vọt, nhục hình, tùng xửo cho đến chết, chết một cách đau đớn, quằn quại, cho đến khi kiệt lực, rã rời, ngất lịm đi.
Quả thật, đứng trước thánh giá, sự chọn lựa không phải dễ dàng. Nếu không có một niềm tin sắt đá, một tình yêu sắt son, một lòng đạo sâu xa, một đời nội tâm sâu sắc, thì không ai có thể vượt qua được thử thách này. Đức Giêsu đã nói với thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đh cho con” (2Cr 12,9).
Thật vậy, các ngài đã phải cầu nguyện hàng bao đêm trong chốn lao tù; các ngài đã phải xin ơn trợ giúp thật nhiều để lướt thắng sợ hãi, đớn đau, cực hình, các ngài đã phải đối mặt với cuộc chiến nội tâm gay gắt, để đi tới quyết định một lần thay cho suốt cả đời. Đó là “không” bước qua thánh giá có nghĩa là quết định chọn lấy án tử hình. Chọn lấy án tử hình là chọn lấy cái chết. Nhưng chết đau đớn cách nào, kéo dài trong bao lâu thì còn tùy quan quân lý hình.
Hôm nay, người tín hữu vẫn đứng trước những chọn lựa ấy. Chọn thánh giá Chúa hay chọn những dễ dãi, an nhàn, sung sướng. Chọn yêu mến Chúa hay chọn đời sống ích kỷ của riêng mình. Chọn phục vụ an hem hay là chọn hưởng thụ, khoái lạc. Người ta không thể chọn Chúa khi người ta còn đầy ứ “cái tôi” của mình! Chúng ta không thể chịu tử vì đạo khi tình yêu dành cho Chúa quá ít! Chúng ta không thể chứng minh niềm tin khi tình yêu dành cho anh em chỉ là con số không!
Với bao cực hình mà các Thánh Tử đạo Việt nam đã phải trải qua, cho chúng ta đứng trước một Giáo Hội tràn đầy sức sống, với một tình yêu diệu kỳ. Để noi gương anh dũng của các ngài, người tín hữu chúng ta hãy tập sống tử đao, bằng cách âm thầm vui chịu những đớn đau thử thách từng ngày. Nếu đã có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng phục sinh.
***
Lạy Chúa, chúng con hãnh diện là con cháu các Thánh tử đạo Việt Nam.
Xin cho chúng con biết noi gương các vị tiền nhân anh dũng, can đảm là chứng nhân cho Chúa trong đời sống đức tin bằng cách chu toàn các giới răn Chúa.
Xin cho chúng con biết nhiệt hành làm chứng cho Tình yêu bằng một đời sống quảng đại, hiến thân và phục vụ anh em.
Xin cho máu các Thánh Tử đạo Việt Nam thắm đượm trên quê hương chúng con, để cánh đồng truyền giáo Việt Nam sớm gặt hái được mùa lúa bội thu. Amen.
20.Thập giá
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh. Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
21.Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù… vẫn hằng thôi thúc các Kitô hữu chà đạp lên nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo Chúa là Đạo yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13, 34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn lòng yêu thương tha nhân, Kitô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển vinh.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam