Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 129

Tổng truy cập: 1350253

MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ

MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ

 

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.

Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.

Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.

Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.

Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.

Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.

Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.

Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.

Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?

2. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?

3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?

4. Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?

 

5.Chúa nhật 2 Thường niên

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

“CHIÊM NGƯỠNG VINH QUANG VÀ TIN VÀO CHÚA”

Phụng vụ Công giáo nối liền ba sự kiện trong Tân ước với nhau và “đọc” thấy ở đó cùng một thông điệp: Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho nhân loại. Ba sự kiện ấy là việc Chúa Giêsu tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông; Chúa Giêsu chịu phép rửa trong dòng nước sông Giođan; Chúa Giêsu làm dấu lạ đầu tiên tại Cana. Cả ba đều được diễn tả như những cuộc “thần hiện”, tức là việc Thiên Chúa hiển linh cho con người thấy vinh quang của Ngài, để nhờ đó mà tin vào Ngài. Trong trình thuật về dấu lạ tại Canna mà chúng ta vừa nghe, Thánh Gioan hôm nay cũng kết luận: “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” (câu 11).

Thực ra, trọn vẹn cuộc đời dương thế của Đức Giêsu là một cuộc “hiển linh”, bởi vì Người đã trút bỏ vinh quang và địa vị cao sang để mặc lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Tuy vậy, qua những sự kiện vừa nhắc đến trên đây, Chúa chứng minh thân phận thiên linh của Người. Thân phận ấy được “ẩn giấu” trong cuộc đời dương thế. Những phép lạ mà Chúa đã làm không nhằm mục đích tạo ấn tượng và đáp ứng trí tò mò của con người, nhưng để khẳng định vai trò thiên sai của Người và để dân chúng tin vào Người.

Trở lại với dấu lạ ở Cana, tác giả Gioan muốn khẳng định với chúng ta: Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thực hiện một cuộc sáng tạo mới. Với Chúa Giêsu, lịch sử đã sang trang. Đây cũng là khởi đầu của kế hoạch mới mà Thiên Chúa muốn thực hiện vì tình yêu mến dành cho con người. Thiên Chúa từ nay không còn xa vời đối với con người, nhưng trở nên gần gũi với họ. Thời Thiên sai được khai mở, nồng ấm và vui tươi như rượu mới, thay thế nước lã vô vị đã trở nên lỗi thời. Đức Giêsu hiện diện ở một đám cưới là một hình ảnh rất mới lạ mà một cách diễn tả “táo bạo” về Thiên Chúa. Giáo lý Kitô giáo nhận ra qua sự hiện diện này một Thiên Chúa dấn thân nơi mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, đồng thời chúc lành và thánh hóa tình yêu hôn nhân. Nếu trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa muốn giới thiệu hình ảnh Người hòa mình vào dòng người đang chờ đợi xin Ông Gioan làm phép rửa, thì trình thuật tiệc cưới Cana lại muốn diễn tả một Thiên Chúa “vào đời” để gần gũi cảm thông với con người. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người hiện diện giữa nhân loại như chàng rể. Nhân loại đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x. Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Hình ảnh tiệc cưới cũng được dùng trong Cựu ước để diễn tả niềm vui của dân tộc Do Thái vì có Chúa hiện diện (Bài đọc I). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x. Kh 19,1-7).

Ở đây ta thấy vai trò của Đức Trinh nữ Maria. Mẹ cũng được mời tham dự đám cưới. Vai trò của Mẹ, vừa mang tính tế nhị của một người phụ nữ, vừa tỏ bày quyền thế đối với Đức Giêsu. Là một người tinh tế, Mẹ nhận ra nỗi lo của chủ tiệc; như một người quyền thế, Mẹ chỉ nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi!”. Đây vừa là một lời van xin, vừa là một mệnh lệnh. Chức năng trung gian của Mẹ được thể hiện một cách rất rõ ràng: Mẹ vừa nói với Chúa Giêsu về sự kiện xảy ra; Mẹ vừa dặn dò những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!”. Phép lạ đã xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ, và do sự vâng lời của con người.

Chúng ta đã được nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Đó là lời khẳng định của Thánh Gioan Tông đồ trong lễ Giáng Sinh (x. Ga 1,14). Việc chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa phải giúp chúng ta tin vào người. Có người sẽ phản ứng: chúng tôi có thấy gì đâu, ngoài hình hài một trẻ sơ sinh đặt trong máng cỏ ở hang đá Giáng sinh!. Vâng, các nhà đạo sĩ cũng thấy như chúng ta, nhưng họ đã thờ lạy và tôn nhận Hài nhi là Vua của các vua và là Chúa của các chúa. Sau này, Đấng Phục sinh khẳng định với Tông đồ Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà có lòng tin” (x. Ga 20,29).

Thiên Chúa vẫn đang tỏ bày vinh quang của Ngài bằng nhiều cách thế khác nhau. Vũ trụ là cuốn sách kể lại với chúng ta về vinh quang Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Ngài làm” (Tv 18,2). Ngay giữa cộng đoàn đức tin, Chúa cũng đã san sẻ vinh quang của Ngài cho các tín hữu, nhờ đó họ có thể đón nhận những khả năng khác nhau để cùng loan truyền Danh Chúa. Thánh Phaolô đã liệt kê các ơn của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, Thông minh. Chữa bệnh, Làm phép lạ, Ơn tiên tri, Ơn ngôn ngữ (Bài đọc II). Dù được ơn gì và dù ở địa vị nào, tất cả những ơn ban trên đây đều nhằm phục vụ Giáo Hội là thân thể của Đức Kitô, để rồi vinh quang của Người tiếp tục tỏ hiện.

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Ngày hôm nay, Đức Maria vẫn đang khuyên chúng ta như thế. Thực hành Lời Chúa dạy là phương thế giúp chúng ta nên thánh, nhờ đó mà Chúa thực hiện những điều lạ lùng giữa cuộc sống chúng ta.

 

6.Chúa Nhật 2 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)

Thứ hai thì ngắm:

“Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana”

1 – Phép lạ đầu tiên

Theo thánh sử Gioan, phép lạ nước hóa thành rượu là phép lạ đầu tiên. Vì thế, phép lạ này mang ý nghĩa đặc biệt. Tương tự như dụ ngôn “Người Gieo Giống”, đó là dụ ngôn đầu tiên liên quan đến các dụ ngôn, đến lời của Đức Giêsu, đến sứ mạng của Người và diễn tả tất cả các mầu nhiệm lớn của đức tin: sáng tạo, lịch sử cứu độ, Nhập Thể, Thánh Thể và Vượt Qua.

(1) Vì là phép lạ đầu tiên, nên có thể nói, phép lạ nước hóa thành rượu là “phép lạ mẹ”, phép lạ của các phép lạ. Vì phép lạ này định hướng cho mọi phép lạ, và cho chính sứ mạng của Đức Giê-su; vì thế, Ngài đã hành động, cho dù có vẻ như chưa đến “Giờ của Ngài”. Đó là phục vụ sự sống, như chính Người tuyên bố: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Thế mà, sự sống được lưu truyền qua hôn nhân: tất cả chúng ta đều là “hoa trái” của bí tích và đời sống hôn nhân Chúa ban cho cha mẹ!

(2) Hơn nữa, con người không chỉ sống bằng lương thực, vốn vừa là của ăn vừa là hình ảnh diễn tả mọi phương tiện để sống, sinh hoạt…, nhưng còn sống bằng tương quan nữa, tương quan tình bạn, tình yêu, đón nhận, bao dung, chia sẻ, hiệp thông. Thế mà, rượu ngon cưu mang cả hai chiều kích này.

ĐỨC KI-TÔ đến để phục vụ

cho SỰ SỐNG của con người

Thể lý

chữa bệnh, hồi sinh, cho ăn…

 

Tương quan

Tha tội, kêu gọi, qui tụ, mời gọi tha thứ, đón nhận, yêu thương…

 

BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Thật vậy, theo khuôn mẫu của bí tích Thánh Thể, phép lạ này hướng tới chiều kích căn bản của sự sống là tương quan, nhưng lại không bỏ qua những phương tiện cụ thể tạo nên tương quan, đó là “rượu ngon”. Vì thế, sau này, các phép lạ chữa bệnh luôn hướng tới ơn tha tội, nghĩa là phục hồi tương quan với Chúa, với mình và với nhau.

(3) Trong tiệc cưới Cana, Đức Giê-su đã bày tỏ Ngài mới là “Tân Lang”, nghĩa là người đã mang lại rượu ngon dư tràn trong tiệc cưới. Sau này, Ngài sẽ thực sự trở thành “Tân Lang” mới và đích thật, ban cho chúng ta “rượu tuyệt hảo” là chính Máu của Ngài, để cho con người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10).

* * *

Như thế, tất cả các phép lạ đều hướng về “dấu lạ chữa lành” của Thập Giá, vì đó dấu lạ chữa lành và phục hồi sự sống của con người cách triệt để, và sức khỏe, thân thể lành lặn, ăn uống chỉ là tạm thời và là dấu chỉ của ơn chữa lành viên mãn.

2 – “Có tiệc cưới tại Cana”

a. Khung cảnh tiệc cưới

Trình thật Tin Mừng kể lại tiệc cưới diễn ra vào “ngày thứ ba”; và trước đó, Đức Giêsu đã bắt đầu thu nhận các môn đệ. Chính vì thế, họ có mặt cùng với Đức Giêsu tại tiệc cưới.

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (c. 1-2)

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm tiệc cưới. Nếu không phải tiệc cưới của chính mình, thì tiệc cưới của người khác! Nhất là của những người thân yêu hay của những người bạn, mà chúng ta có cơ hội tham dự, thậm chí đóng góp! Cho dù là tiệc cưới của người khác, nhưng cũng đủ, để chúng ta dễ dàng hình dung ra khung cảnh và có thể chiêm ngắm, hoặc áp dụng ngũ quan: nhìn, nghe, ngửi, nếm và đụng.

Vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm khung cảnh đám cưới, ghi nhận và cố gắng đi vào ý nghĩa của đám cưới, theo gương của Đức Maria, Mẹ của chúng ta: “ghi nhớ mọi biến cố và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), “giữ lại mọi biến cố trong lòng” (Lc 2, 51). Đặc biệt, chúng ta cần nhận ra tầm quan trọng của đám cưới đối với đời người, gia đình, xã hội và Giáo Hội nữa. Ngoài ra, trong lịch sử cứu độ, đám cưới còn là những bước ngoặt quyết định: đám cưới nguyên thủy giữa Ông Bà Tổ Adam và Eva; sau đó là các biến cố hôn nhân vào thời các tổ phụ khởi đi từ tổ phụ Abraham, như bản gia phả trình bày cho chúng ta (x. Mt 1, 1-17). Ngoài ra, đám cưới và đời sống hôn nhân là hình ảnh diễn tả cách đặc biệt:

* Tình yêu. Hai người chọn nhau và được ban cho nhau.

* Hạnh phúc. Trong tiệc cưới, người ta thường chúc cho đôi tân hôn “trăm năm hạnh phúc”[1].

* Lưu truyền sự sống. Hôn nhân được Thiên Chúa chuẩn nhận và trao ban sứ mạng lưu truyền sự sống, vốn là hình ảnh của sáng tạo và của sáng tạo mới với ân huệ sự sống viên mãn. Và cùng với sự sống, các phong tục tập quán văn hóa và tôn giáo được lưu truyền cách bền vững. Vì thế, Đức Giê-su hay dùng hình ảnh tiệc cưới trong các dụ ngôn nói về Nước Trời.

b. “Họ hết rượu rồi”

Khi chiêm ngắm tiệc cưới, chúng ta hãy chú ý đặc biệt đến Đức Maria, và nhóm Đức Giêsu và các môn đệ. Trước hết, chúng ta cùng hiện diện với Đức Maria và đi vào tâm tư của Mẹ: Mẹ đã hiện diện ra sao trong đám cưới, để có thể biết được sự cố hết rượu giữa chừng và tại sao mẹ lại đi nói với Đức Giêsu:

Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi Họ hết rượu rồi!”

Dường như các ngài đến đến từ hai “thiệp mời” khác nhau. Giống như ở Việt Nam, trong tiệc cưới, có những vị khách vừa đến dự tiệc, nhưng vừa phụ việc nữa, chẳng hạn người thân, bạn bè, hàng xóm; và có những khách mời chỉ đến dự tiệc rồi về. Giả định này giúp chúng ta hiểu hai phản ứng khác nhau, một của Đức Mẹ và một của Đức Giê-su. Trong tiệc cưới, Đức Maria đã hiện diện không như khách, nhưng như thành viên đóng góp vào biến cố niềm vui, chính vì thế Mẹ biết rõ tình trạng thiếu rượu; và có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm dự đám cưới như Đức Maria.

Hết rượu là mất vui, là đụng chạm đến ý nghĩa của đám cưới. Thật vậy, ở Palestine và những dân tộc quanh biển Địa Trung Hải, rượu không chỉ cần cho bữa tiệc, nhưng còn tượng trưng cho niềm vui gặp gỡ. Để hiểu sự nghiêm trọng của sự cố hết rượu trong tiệc cưới, chúng ta có thể nhớ lại những bữa ăn đãi khách trong gia đình chúng ta: giữa chừng thì hết rượu hay hết bia! Trước sự cố này, Đức Giêsu có vẻ giữ khoảng cách, khi nói:

Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?

Giờ của tôi chưa đến.

Lời nói này làm chúng ta nhớ lại lời nói Người thưa với cha mẹ đã phải “cực khổ” tìm kiếm Người, ở Đền Thờ, lúc Đức Giêsu mười hai tuổi: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi “suy đi nghĩ lại” và nhận ra rằng, cả hai lời nói đều mang nặng ý nghĩa: Đức Maria phản ứng như người Mẹ hiền từ và như người hàng xóm tốt bụng, còn Đức Giêsu thì sống cho giờ của Người, nghĩa là cho kế hoạch của Chúa Cha.

Tuy vậy, mẹ vẫn tin tưởng nơi Đức Giêsu. Giờ của Ngài chưa tới, nhưng Mẹ tin rằng, Người có thể “chỉnh giờ” lại. Hay một cách sâu xa hơn, Đức Mẹ còn hiểu rõ hơn cả Đức Giê-su về ý muốn của Chúa Cha ; theo Mẹ, “Giờ” của Đức Giê-su, con của Mẹ, đã đến rồi, đã đến lúc phải hành động rồi và hành động từ đây, từ biến cố đám cưới hết rượu giữa chừng; vì biến cố tuy hạn hẹp, nhưng tượng trưng cho sự sống và Đức Giê-su đến là để phục vụ cho sự sống, để làm cho con người được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, rượu ngon còn diễn ra cách con của Mẹ phục vụ cho sự sống, như Người sẽ nói:

Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

(Mt 20, 28)

3-  Sáu chum nước và rượu ngon

Quả thực, Đức Giêsu đã hành động: vừa đáp lại lời cầu bầu của Đức Maria để cứu bữa tiệc, vừa mở rộng ý nghĩa của hành động này. Sáu chum nước lớn, vốn dùng để thanh tẩy, theo Luật cũ và đức công chính cũ, Ngài sẽ làm cho trở nên viên mãn khi làm cho chúng trở thành rượu, tượng trưng cho ơn tha thứ, hòa giải và niềm vui, cho đức công chính của Đức Giê-su, mà Thiên Chúa trao ban nhưng không cho loài người và cho mỗi người chúng ta. Tiến trình biến đổi ra sao, không ai biết, nhưng người quản tiệc công khai xác nhận hoa trái, đó là rượu ngon. Sự hiện diện và quyền năng của Chúa cũng vậy, thật kín đáo và mầu nhiệm, chúng ta chỉ nhận ra kết quả lạ lùng trong lịch sử và cuộc đời chúng ta mà thôi, như lời Thánh Vịnh diễn tả: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người!” (Tv 77, 20)

Hình ảnh nước biến thành rượu do quyền năng của Đức Giêsu và sự can thiệp của Đức Maria rất phù hợp với con người và cuộc đời của chúng ta: chúng ta cũng nhặt nhẽo như nước rô-bi-nê! Từ nước lạt lẽo, thành rượu, rượu ngon tràn trề, từ bất xứng (vì thế cần được thanh tẩy bằng dấu chỉ nước) sang phục hồi phẩm cách trọn vẹn (trường hợp người con hoang đàng trở về), từ lo sợ sang niềm vui tràn trề. Hình ảnh “đổ đầy tới miệng” diễn tả sự trọn vẹn và dư tràn. Thực vậy, cuộc đời chúng ta, hành trình theo Chúa của chúng ta trong ơn gọi, có thể ví như một niềm vui đứt đoạn ; một hành trình lạt lẽo: xin Mẹ quan tâm phù hộ, cầu bầu và xin Chúa hành động để ban niềm vui và làm cho thơm ngon như rượu mới của tiệc cưới Cana.

Như thế, Đức Giêsu không chỉ đáp ứng, nhưng còn đáp ứng quá sự chờ đợi, cả về số lượng lẫn chất lượng, để hướng chúng ta về ơn huệ sự sống viên mãn Ngài sẽ trao ban. Đó là dấu chỉ của ân sủng thần linh, tương tư như dấu chỉ bánh hóa nhiều. Thật vậy, thánh sử Gioan kể lại:

Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

(c. 11)

Phép lạ nhỏ bé, nhưng lại bày bỏ “Vinh Quang” của Đức Giê-su, nghĩa là bày tỏ căn tính Con Thiên Chúa và Ngôi Lời Thiên Chúa của Người. Xin cho chúng ta cũng nhận ra dấu lạ “nước hóa rượu”, Chúa thực hiện nơi cuộc đời chúng ta, khi ban cho chúng ta đức tin và mời gọi chúng ta đi theo Người trong đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến, để làm chứng về lòng thương xót và “vinh quang” của Người.

Lời trách của ông quản tiệc đối với tân lang: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (c. 10) cho phép chúng ta nhận ra rằng, lúc này Đức Giêsu mới là “Tân Lang” thật, trong mức độ chính Người ban rượu ngon dư tràn. Thực vậy, Đức Giêsu mới là Tân Lang của một tiệc cưới mới, niềm vui mới, sự sống mới (nơi không còn dựng vợ gả chồng) và tương quan mới (vì nghe và sống Lời Thiên Chúa).

* * *

Chúng ta cũng cần chú ý, Đức Maria vẫn không rời Đức Giêsu trong thời gian sứ vụ công khai của Ngài (c. 2 và 12). Các Tin Mừng hầu như không nói gì về Đức Maria trong cuộc đời công khai, nhưng rõ ràng Đức Maria đi theo Đức Giêsu. Ở đây và một vài dịp khác, và nhất là dưới chân Thập Giá (bài Tin Mừng ngày lễ Đức Mẹ sầu bi, ngày 15 tháng 09), khi mà các môn đệ bỏ trốn hết.

Nhưng tương quan giữa hai Mẹ Con từ từ được biến đổi cách sâu xa, như chính Đức Giê-su sẽ tuyên bố: “Mẹ tôi và anh chị em của tôi là những người lắng nghe và sống Lời Chúa”. Điều này thật ra đã được chuần bị từ từ, và biến cố lúc Đức Giêsu mười hai tuổi cho thấy điều đó. Giống như trong đời sống dâng hiến, “từ bỏ” gia đình, không có nghĩa là không còn tương quan với gia đình và những người thân yêu, nhưng để cho Lời Chúa tái tạo thành tương quan mới của Nước Trời. Vậy, khi chiêm ngắm Đức Giê-su trong đời sống công khai, chúng ta đừng quên chiêm ngắm cách Đức Maria đi theo Đức Giêsu, như Người Mẹ hiền, như “Nữ Tỳ hèn mọn”, như “Người Môn Đệ”, như Người Thân Yêu trong Gia Đình mới Nước Trời.

Người bảo gì các anh cứ làm theo.

Đây là lời nói cuối cùng của Đức Maria, không chỉ dành cho những người phục vụ tiệc cưới, nhưng còn cho người môn đệ của Đức Giê-su, nam cũng như nữ, thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, vì đó còn là “Mầu Nhiệm Sự Sáng” thứ hai. Chúng ta hãy suy niệm thật lâu lời này, để hiểu Đức Maria, hiểu tương quan của Đức Maria trong quá khứ và tương lai với Đức Giê-su. Lời này của Mẹ giống với lời của Chúa Cha trong biến cố Biến hình:

“Hãy nghe lời Ngài”.

----------------

[1] Đúng là trong thực tế cuộc sống, hình ảnh đôi vợ chồng là hình ảnh hiển nhiên nhất của hạnh phúc con người. Vì thế, vào dịp đám cưới, người thân thuộc và bạn bè thường cầu chúc cho đôi tân hôn: trăm năm hạnh phúc, con đàn cháu đống, răng long đầu bạc… Ngược lại, vào ngày truyên khấn, các tu sĩ nam nữ thường nhận được những lời cầu chúc, đồng thời cũng là những lời khuyên: can đảm hi sinh, bền đỗ chịu đựng, kiên trì vác thập giá, chịu thương chịu khó, nhẫn nhục chịu đựng, hãm mình khổ chế, ăn chay đền tội… Ngoài ra, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, hôn nhân còn là hình ảnh của Giao Ước giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đức Kitô và Giáo Hội.

Tuy nhiên, hôn nhân không phải là hình ảnh có tính quyết định của Nước Trời. Hình ảnh quyết định của Nước Trời là tình “huynh đệ” giữa mọi người trong Đức Giêsu Kitô, và theo khuôn mẫu của Người trong “Gia Đình Mới”, là tương quan thân thuộc bởi Lời Chúa, mà Đời Thánh Hiến sống và làm chứng. Hình ảnh mà ngay bây giờ thật đáng giá và thật cao quí để chúng ta dâng hiến cả cuộc đời để đón nhận với tâm tình cảm mến và ca tụng. Đó thực sự là một niềm vui và một hạnh phúc được kinh nghiệm ngay ở đời này và loan báo niềm vui và hạnh phúc viên mãn đời sau. Nếu hiểu như vậy, phải chăng chúng ta nên thay đổi lời cầu chúc dành cho những người sống đời dâng hiến?

home Mục lục Lưu trữ