Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 66

Tổng truy cập: 1361012

MỌI NGƯỜI ĐỀU THUỘC VỀ

MỌI NGƯỜI ĐỀU THUỘC VỀ

 

(John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Hãy đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đi theo và quấy rầy chúng ta” (Mt 15,23)

Có nhiều người không thuộc về ai, cũng chẳng thuộc về một tổ chức nào hay một đoàn thể nào. Họ thình lình xuất hiện, có thể chỉ để phá đám, hoặc gây rối. Họ không giống ai, có chăng chỉ là thứ người ương ương, dở dở. Thiết tưởng rằng, bạn có thể suy đoán tôi đang nói tới loại người nào. Quả đúng như vậy, rất có thể trong loại người đó có bạn, và có cả chính tôi nữa. Giáo hội ngày nay đa phần gồm những con người chẳng đáp ứng đúng theo quy chuẩn mà các môn đệ đã đề ra, khi các Ngài nhìn vào người phụ nữ Canaan đã đến xin Chúa chữa lành cho con gái bà bị quỷ ám. Các môn đệ nói với Chúa hãy “quát bảo để đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đeo bám chúng ta mãi”. Tuy nhiên Chúa đã không xua đuổi, và Ngài nói với người phụ nữ: “ Ta chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”.

Tại sao bà ta không “ thuộc về”? Chúng ta khởi đầu với 3 lý do: hoặc bà ta chỉ là một phụ nữ, hoặc bà ta là một người Canaan- gốc dân ngoại, hoặc bà ta chỉ đến để nhũng nhiễu và gây rối, vì bà cứ đeo bám một cách dai dẳng. Ấy vậy mà, một nửa trong chúng ta lại là phụ nữ, đa phần chúng ta cũng là gốc dân ngoại, và nói một cách công tâm, tất cả chúng ta đều đã từng nhũng nhiễu và gây bao phiền toái cho người khác. Đức Giêsu tuyên bố Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel, không có dân ngoại trong đó. Ngài còn so chiếu người phụ nữ Canaan với một con chó, có vẻ như thật khinh suốt, nếu đúng ngôn từ đó ám chỉ đến một con vật quen thuộc mà người ta vẫn thường nuôi trong nhà. Rõ ràng, người phụ nữ này không “thuộc về”, nhưng tại sao một kiều cư gốc dân ngoại lại không được Đức Giêsu quan tâm đến, khi Ngài thực thi sứ vụ chữa lành và rao giảng.

Đức Giêsu đã đến “miền Tyre và Sidon”, một vùng đất dân ngoại. Chắc chắn Ngài sẽ gặp những kiều dân ở đó. Điều này đánh đố chúng ta khi nêu vấn nạn tại sao Đức Giêsu lại tuyên bố “ Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel” , cũng như Ngài đã từng chỉ thị cho các môn đệ giống như vậy khi sai các ông đi truyền giáo ( Mt 10,6). Tuy nhiên, chúng ta phải qui chiếu một cách hài hòa những lời tuyên bố trên với sứ vụ rộng khắp, mà Đức Giêsu đã chuyển giao cho các môn đệ trước khi về trời “ Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Điều này gợi mở cho chúng ta hai thực tại song chiếu trong lịch sử cứu độ. Một là dòng dõi Abraham, tức dân Israel-một dân tộc ưu tuyển, được lựa chọn cách riêng để thực hiện giao ước thân tình với Thiên Chúa, và mặt khác, giao ước này trong tương lai sẽ được dàn trải đến khắp muôn dân.

Ngôn sứ Isaia đã nêu lên khía cạnh thứ hai này theo truyền thống cựu ước. Vị ngôn sứ tiên báo rằng “Những dân ngoại giữ ngày sabat mà không vi phạm, và những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỉ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” ( Is 56,6-7). Isaia và nhiều tiên tri khác cũng nói rằng sẽ tới lúc mọi dân tộc sẽ được đón nhận giao ước. Điều đó xảy ra bao giờ và như thế nào, chúng ta phải nhìn xuyên suốt trong lăng kính của lịch sử ơn cứu độ mới có thể lãnh hội được. Trong sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, chúng ta sẽ thấy lời tiên báo của Isaia đang trở thành hiện thực.

Có thể, thái độ và lời nói của Đức Giêsu đã chạm đến lòng tự ái của người phụ nữ Canaan. Nhưng các học trò của Ngài trong khoảnh khắc lạ kỳ đó của lịch sử cứu độ, đã khơi dậy lòng tin của bà đặt để nơi Thiên Chúa, là Chúa của người Israel. Thoạt đầu, Đức Giêsu đã im lặng, không đáp trả trước lời cầu ngỏ của người thiếu phụ. Kế đến Ngài tuyên bố là Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel, với người nhà mà thôi. Và cuối cùng Ngài còn nói một cách mạnh mẽ thẳng thừng “ Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Trong cơn thử thách, người phụ nữ gan lì này đã không tuyệt vọng, nhưng vẫn tin. Bà ta vẫn tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể ra tay hành động để cứu chữa con gái bà.

Đức tin của bà không bị lung lay và chẳng suy chuyển chút nào.

 

20.Niềm tin chịu thử thách

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn giữ điểm trên trung bình.

Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.

Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng” hay “Em không đồng ý.”

Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già” của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều này khiến người ta suy nghĩ.

Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu “nín thở qua cầu”. Thấy thế, các bạn cô cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.

Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khoá đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: “Điểm A”.

Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.

Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?

Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?

Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tư lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.

Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó:

Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Siđôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.

Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”.

Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.

Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỷ để làm phép lạ (Mc 3:22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6:15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8:26).

Thái độ dè dặt của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israel.

Yvon Daigneault có viết: “Israel của Chúa Giêsu là Israel của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israel đó ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.

Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israel này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thách đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng”.

Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói “Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó”, bà đã khiêm tốn thưa: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó” (Mt 15,26-27).

Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất.

Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm “A”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy” (Mt 15,28).

Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa: “Kyrie eleison – Xin Chúa thương xót con”.

 

21.Bà muốn sao thì được vậy

Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái của Đấng Messia, con vua Đavít và rất đông người Kitô giáo Hy Lạp (ngoại giáo) của Đức Kitô. Vì số người Do thái Kitô giáo ít còn Hy Lạp thì đông nên Đức Giêsu trong Phúc Âm và Giáo Hội là Đức Kitô.

Điểm của đoạn Phúc Âm là "lòng tin". Không phải do thái hay dân ngoại. Lòng tin làm phép lạ. Chúa nhậm lời vì thấy lòng tin. Có lòng tin là tín hữu, là môn đệ, là được Chúa quan tâm, là được nhậm lời. Nhưng đức tin phải tự chứng minh qua nhiêu thử thách. "Thiên Chúa thử thách Abraham đủ cách để coi ông có thật lòng thờ Chúa hay không".

CHÚ GIẢI

- Có một người đàn bà Canaan: bà ngoại đạo, không phải Israel.

- Kêu lên rằng: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi: Kêu theo kiểu Israel. Bắt chứoc người Israel, họ đang mong đợi một Đấng Messia, con vua Đavít..

- Nhưng Người không đáp lại một lời: kêu chưa đúng. Messia là của Do thái. Bà nầy không phải Do thái. Giáo Hội không kêu vậy mà kêu "Đức Kitô" của mọi người không phân biệt Israel hay Hy Lạp (khi viết Phúc Âm thì các Kitô hữu đầu tiên là Israel rồi Hy Lạp đông dần lên).

- Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Israel: Con vua Đavít là của Israel, là danh xưng quen thuộc của ngưòi Israel với niềm hy vọng Người sẽ tái lập nhà Đavít và một triều đại thịnh vượng cho Israel.

- Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi: Lời cầu xin mà mọi tín hữu thường dùng không phân biệt Israel hay dân ngoại. Đúng rồi.

- Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn: Thử thách cuối cùng làm phát sinh đức tin. Thiên Chúa thử thách vì muốn ban ơn chứ không vì sở thích. Không có lòng tin thì không thể có gì. Thử thách có bài bản chứ không lung tung không biết đâu mà rờ. Ngưòi chỉ lập lại cái cách mà người Do thái coi dân ngoại là chó, heo. Ngưòi không như vậy. Bà nầy biết nên không tự ái. Thử thách là để cho thấy đức tin. Thấy đức tin mới cho.

- Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được hưởng những mảnh vụng từ bàn ăn chủ rơi xuống: Chó con sẽ chết. Một cách trả lời thản nhiên, chấp nhận. Ơn cứu độ bắt đầu từ ngưòi Do thái, nhưng không chỉ cho thiểu số Do thái mà phải lan rộng đến mọi người.

- Lòng tin của bà mạnh thật: Bà hiểu vấn đề và Lời Chúa và đã áp dụng đúng. Vấn đề trước hết là hiểu bản văn Lời Chúa để áp dụng đúng như Chúa muốn. Đó là tin.

- Bà muốn sao thì được vậy: Tin sao thì được vậy. Tin không đúng thì không được. Hãy để ý điều nầy. Phải hiểu đúng để tin đúng. Không phải cứ tin mà phải tin cho đúng.

Cách đọc Lời Chúa đơn giản nhất và hiệu quả nhất là nghiên cứu chuyên môn để hiểu đúng bản văn rồi áp dụng dúng thì chắc chắn hiệu quả vì là Chúa muốn vậy. Nhưng không dể. Các công trình nghiên cứu cho tới nay chỉ tham vọng tìm được nghĩa gần nhất với ý tác giả Phúc Âm.

Đoạn Phúc Âm nầy không khó. Điểm cốt yếu dể nhận ra. Đó là: Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao được vậy. Thiên Chúa muốn ban ơn, sẳn sàng ban ơn. Nhưng điềư kiện rất rõ ràng là lòng tin. Là điều kiện tất yếu, không thể thiếu. Là điều kiện đủ không cần gì thêm. Phải biết đúng diều Chúa muốn để tin cho đúng và làm cho đúng. Phải nhờ những nhà chuyên môn hướng dẫn. Nhưng ngừơi ta lại sợ học Phúc Âm. Tự đọc làm sao hiểu. Tại sao có hiện tượng "tôn giáo cực đoan"? Vì hoặc không đọc hoặc tự đọc không hiểu đúng ý Chúa. Biết đúng ý Chúa thì tin rất dễ.

Phêrô sợ và chìm. Theo suy nghĩ riêng thì sợ. Thầy đây đừng sợ. Suy nghĩ theo ý Chúa thì không chìm. Người Do thái coi ngưòi ngoại là chó, heo. Nhưng Thiên Chúa thì không. Hiểu mới tin. Fides clamat intellectum. Intellegas ut credas (Augustin). Nguời ta không tin vì không hiểu vì con ngưòi có trí khôn để hiểu. Hiểu mới có xác tín. Phải chịu khó nghiên cứu. Phải làm hết sức để hiểu Lời Chúa. Còn lại Thánh Thần sẽ bổ khuyết cho. Không thể chỉ xin "ban cho con một đức tin anh dũng" mà có.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con chịu khó nghiên cứu và suy niệm để hiểu Lời Chúa vì như thế mới có được lòng tin mạnh thật và được như ý.

 

22.Tình Chúa bao la không bến bờ

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Một người đàn ông Hồi giáo ở Ai-cập giết vợ vì chị này đọc Kinh Thánh, rồi đem chôn cùng với hai đứa con gái, một còn đang bú và một đã lên tám. Cả hai bé gái đều bị chôn sống! Sau đó anh ta đến báo với cảnh sát là một ông chú đã giết chết hai đứa bé. Mười lăm ngày sau, một thành viên khác trong gia đình qua đời. Khi đưa người chết đi chôn, người ta tìm thấy hai bé gái bị vùi dưới cát vẫn còn sống!

Toàn quốc Ai-cập đều căm phẫn sâu sắc về vụ việc xảy ra, và kẻ sát nhân bị hành hình vào cuối tháng Bảy, 2008. Người ta hỏi bé gái 8 tuổi làm cách nào để có thể sống sót được và em đã trả lời: "Một người đàn ông mặc áo trắng rực rỡ, cùng với các vết thương trên hai bàn tay, hằng ngày đến nuôi sống chúng cháu. Người ấy đánh thức mẹ cháu dậy để mẹ cháu có thể cho em bú." Cô bé đã được phỏng vấn bởi một phụ nữ Hồi giáo mang mạng che mặt phụ trách kênh tin tức trên Đài Truyền Hình Ai-Cập. Người này đã nói công khai trên truyền hình: "Đó chính là Đức Giêsu, bởi chẳng một ai khác có thể làm được những việc như thế!"

Những người Hồi giáo tin rằng Isa (tức là Chúa Giêsu) đã thực hiện việc đó, các vết thương có nghĩa là Người thực sự đã chịu đóng đinh, và rõ ràng là Người đang sống! Đằng khác, cũng hết sức rõ ràng là đứa bé không thể bịa ra được một câu chuyện như thế, và hai đứa trẻ không thể nào sống sót nếu không có một phép lạ thực sự. Các nhà lãnh đạo Hồi giáo đang phải trải qua một thời khắc khó khăn chưa biết xử trí ra sao về việc này, và việc phổ biến các phim ảnh "Chết Vì Đạo" cũng chẳng giúp được gì! Ai-cập là một quốc gia nằm ở trung tâm của việc truyền thông và giáo dục tại vùng Trung Đông, các bạn có thể tin chắc là câu chuyện này sẽ được phổ biến rộng rãi. Đức Kitô vẫn đang kiểm soát và biến đổi thế giới. Hãy sẵn lòng chia sẻ câu chuyện này với mọi người. Đức Chúa phán: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa." (Gr. 17) (CBS)

Người mẹ đã chịu tử vì đạo vì tin, cậy, mến Lời Chúa và Ngôi Lời đã thương xót cứu hai bé gái. Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, cũng một người mẹ dân ngoại, hết lòng cầu xin Đức Giêsu cứu chữa con bà khỏi quỷ ám. Người động lòng cứu giúp, và còn ca ngợi đức tin vững mạnh của bà.

Tình mẹ biển cả

Lòng mẹ thắm thiết và sâu lắng, thường được ví von bao la như biển Thái Bình. Hình tượng người mẹ luôn sáng lạn, rạng ngời trong tâm khảm dân Việt cũng như nhân loại từ ngàn đời.

Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao,

Đố ai đếm được những vì sao,

Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.

Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 23)

Vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan cứ mãi kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Người, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi!” Vượt qua thái độ từ khước công khai của Đức Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.

Khi nghe lời từ chối quá phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!” bà mẹ liền tìm ngay được mẩu phao cứu sinh. Nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà chẳng hề mơ được nguyên tấm bánh, mà khiêm tốn chỉ dám mong đợi một chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Chẳng lẽ Ông Chủ giàu có và hào phóng lại nỡ từ chối?

Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)

Tình Chúa vô bến bờ

Dù tình mẫu tử dạt dào biết bao đi nữa, thì cũng có giới hạn nhất định, như biển rộng bao la vẫn có bến bờ. Hiện nay, tại các bảo sanh viện, còn rất nhiều người mẹ trẻ vẫn đang nhẫn tâm phá thai, với sự đồng lõa của những đao phủ áo trắng, được mệnh danh thật khôi hài và mỉa mai là “lương y như từ mẫu.”

Trong khi Thiên Chúa luôn mãi nhân từ vô biên, vô hạn, đã khẳng định qua lời ngôn sứ Isaia: “Có người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15)

Tình Yêu Thiên Chúa không hạn hẹp, không phân biệt, không kỳ thị sắc tộc, cũng không hề có ranh giới như con người: “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6,35) Thiên Chúa vô cùng quảng đại, rộng lượng, chí công, chí ái, chí tình: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5, 45)

Không những xót thương cứu giúp những người bệnh liệt, đau ốm, tàn tật thân xác, Đức Giêsu còn tìm đến những bệnh nhân tâm hồn. Người từng hung hồn khẳng định đến thế gian để tìm lại những gì đã hư mất, những người lầm lạc, những con chiên ham vui, đi hoang lạc bầy: "Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5,32)

“Con thấy quả tim con yếu đuối. Các thánh cũng như con. Nhưng nhờ vậy họ mới làm thánh: Nhờ ơn Chúa và ý chí.” (Đường Hy Vọng, số 181)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã thử thách niềm tin, cậy, mến của bà mẹ Canaan, xin Chúa ban ơn cho chúng con luôn mãi tín thác, kiên trì, vững vàng, mạnh mẽ tin yêu vào Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã luôn đồng hành với Chúa Giêsu từ khi Mẹ thọ thai, đến khi Người khôn lớn, đi rao giảng, chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Tình Yêu Mẹ dành cho Chúa Con chẳng thế lấy gì sánh nổi. Kính xin Mẹ thương ban, san sẻ cho chúng con Tình Yêu cao sang vĩ đại đó, để chúng con được thánh hóa, trở nên đồng dạng, đồng hình với Người giữa tha nhân. Amen.

 

23.Chó con cũng được ăn…

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.

 

24.Suy niệm của Lm. Anmai

"Dân ngoại" có lòng tin mạnh hơn quân "Giudêu"

Tất cả những người "bén duyên" với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những "người ngoại" ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những "người ngoại" tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người "ngoại" bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người "ngoại" xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.

Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: "Thưa Cha! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon!". Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một "dân ngoại" thời hiện đại.

Nếu có dịp, ai muốn "tai nghe mắt thấy" thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những "dân ngoại" khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.

Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: "Cha Bửu Diệp mắc cười lắm! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người "lương" ("ngoại giáo") không à! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít". Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của "người ngoại" vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà "có đạo" mà ta thường thấy.

Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho "dân ngoại" nhiều hơn con nhà "có đạo". Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà!

Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị "ném đá" vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho "người ngoại" đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha - con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.

Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: "không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con". Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó! Chúa Giêsu kỳ quá! Không! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ "ngoại giáo" này! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ "ngoại giáo" này đã phá vỡ được sự "cứng cỏi" của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người "ngoại" này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Lòng tin của người phụ nữ "ngoại giáo" này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.

Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là "con nhà có đạo", là quân "Giudêu". Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào? Nó còn nồng thắm như cái "thuở ban đầu lưu luyến ấy" khi mới theo Chúa hay không?

Phải nói rằng như người ta vẫn nói: "gần chùa gọi bụt bằng anh". Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu? sâu baon nhiêu? rộng bao nhiêu? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào?

Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?

Chẳng nói đâu xa, trong giới "luật sĩ và biệt phái" thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của "luật sĩ và biệt phái" đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính "luật sĩ và biệt phái" không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.

Hình ảnh người phụ nữ "ngoại giáo" hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ "luật sĩ và biệt phái" thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.

Chúng ta - quân "Giudêu" - có dám tin vào Chúa như người phụ nữ "ngoại giáo" hôm nay không? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như "người ngoại" thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.

 

25.Thử thách dường như quá sức

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Trong đời sống hằng ngày, một cách nào đó thách đố luôn diễn ra. Đặc biệt, tại những giai đoạn cột mốc, bước ngoặt cuộc đời, luôn có mặt của thách thức. Nó khiến chúng ta mạnh mẽ, quyết đoán, trưởng thành hơn; và ngược lại, nó cũng khiến chúng ta chùn bước, thất vọng với bản thân, có khi tự trách mình!

Đời sống đức tin cũng không nằm ngoài việc luôn có thử thách song hành. Nhiều người lớn tự mình muốn học đạo và theo đạo thường nghĩ: khi trở thành người Công giáo rồi, sẽ không có, hoặc ít đau khổ, gian nan hơn! Tuy nhiên trên thực tế, đôi lúc, họ lại gặp quá nhiều thử thách kể cả sầu khổ sau khi được gia nhập đạo. Một câu nói đâu đó khiến chúng ta cần suy nghĩ, và thật sự đánh động “con không xin Chúa cất hết khổ đau, thử thách, nhưng xin ban cho con sức mạnh vượt thắng”. Nếu là những người không có đức tin, họ sẽ không biết bám víu vào ai mỗi khi gặp khốn khó, có lẽ họ chạy đến ông thần này, bà bụt kia, vái lạy tứ phương tám hướng. Nhưng chúng ta tin thờ Chúa, thì chúng ta đã biết trông cậy vào ai và chạy đến với ai lúc gặp nguy nan, thử thách.

Trong Tin Mừng, hầu hết đức tin của những người không phải Do thái được Đức Giê-su khen ngợi, và một trưng dẫn điển hình được sử dụng như một lời tuyên xưng đức tin trước khi rước lễ, đó là lời tuyên tín của viên đại đội trưởng Rô-ma: “Lạy Thầy, con chẳng đáng rước Thầy vào nhà con, nhưng xin Thầy phán một lời thì tôi tớ tôi được lành mạnh” (x. Lc 7, 6-7). Đoạn Tin Mừng hôm nay vẫn nói tới đức tin của một người ngoại từ miền Ca-na-an (nghĩa là không phải người Do thái), tuy nhiên, thử thách cho bà dường như quá lớn. Lẽ nào Đức Giê-su thử thách quá sức chịu đựng của bà, với câu chữ đanh thép “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24), và có vẻ nặng nề “không nên lấy bánh dành cho con cái mà vứt cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Ở đay, dân Do thái được ưu tuyển và được gọi là “con cái”, còn bà miền Ca-na-an, vốn là người không được ưu tiên như người Do thái, lại được ví như “lũ chó con” hoặc “cún con”. Nếu chúng ta thử đặt mình vào vị thế của bà ấy, có lẽ chúng ta khó lòng nào chấp nhận lời nói đầy ẩn ý thách thức của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta sẽ bỏ cuộc, ra về với lời cầu xin chẳng được thành sự! Tuy nhiên, như đã tường thuật, bà ta không dễ dàng nản lòng nhục trí khi nghe lời có vẻ khó nghe của Đức Giê-su, bà đủ bình tĩnh, nhẫn nại và kiên định với lòng van xin Người ngay từ đầu. Sự kiên nhẫn này đã giúp bà đáp lời một cách khôn ngoan sáng suốt và không kém phần đơn sơ, khiêm hạ, tin tưởng “thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Nói một cách rõ ràng hơn, lời bà ấy có thể được diễn giải chi tiết như: với thân phận không được ưu tuyển như người con, mà cũng chẳng phải tôi tớ của ông chủ, đơn thuần chỉ là chú chó con thôi, thì dĩ nhiên sẽ không được ăn bánh nguyên phần dành cho con cái, nhưng chó con cũng được lượm lặt, ăn những mảnh vụn rơi từ bàn ông chủ một cách vô tình hay chủ ý”. Lời thưa của bà tuy ngắn ngủi, nhưng thiết nghĩ là một bài học lớn lao cho chúng ta - những người có đức tin và đang sống đức tin.

Thật vậy, nếu đức tin chỉ tựa bằng hạt cải với kích cỡ nhỏ nhất trong các loại hạt, cũng trở nên cây cao lớn sum suê rậm rạp, muôn chim đến làm tổ trú ngụ; nếu đức tin chỉ tựa bằng một đấu bột cũng làm dậy cả khối men. Vì lẽ, đức tin khiến chuyển núi dời non; đức tin chữa lành, làm cho người chết sống lại, trừ quỷ; đức tin sinh ra lòng kiên nhẫn, kiên định, hy sinh; đức tin đón nhận thử thách vui tươi, không hờn trách, đổ lỗi hay buông trôi cho dòng đời xô đẩy; đức tin chịu đựng, vượt thắng và cư xử khôn ngoan ngay cả khi cơ hàn, khốn khó.

Chúng ta có lẽ đôi lần thốt lên: thử thách dường như quá nặng, quá sức. Thánh giá của bản thân quá cỡ, quá lớn, quá mức chịu đựng…! Tuy nhiên, sự thật về những thử thách trong đời sống đạo của chúng ta không phải thế, mà được sáng tỏ hơn qua lời quả quyết của Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô: “không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người”; Ngài nói tiếp “Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (x. 1Cr 10, 13).

Nói như vậy, không có nghĩa Thiên Chúa là tác nhân của rủi ro, gian nan, đau khổ con người như chúng ta quen nói và tự hỏi: “sao Chúa trao thánh giá cho tôi, cho gia đình tôi, cho vợ chồng tôi…nặng thế!” Làm sao như vậy được? Vì lẽ thường tình, chẳng ông bố bà mẹ nào lại muốn con cái mình vất vả, gian nan, huống chi trao khổ đau cho chúng! Còn đây, Thiên Chúa không những yêu thương chúng ta mà còn thương yêu chúng ta hơn cả tình yêu cha mẹ dành cho con cái và vượt trên hẳn hành vi yêu thương chính bản thân của chúng ta nữa.

Theo thánh ý trọn hảo (perfect will) của Thiên Chúa, mọi điều, mọi sự, mọi việc mà Người ban cho chúng ta đều tốt lành, nhưng Người vẫn cho phép (permissive will) sự vật, sự thể xảy ra theo nguyên lý của nó vì Người đã đặt để chúng từ thuở ban đầu. Hơn nữa, Người hằng tôn trọng những gì đã trao ban cho con người (như: tự do, ý chí, nhân vị, tình yêu, lòng khao khát liên lỉ….) và cho cả tạo vật (như: định luật xoay vần, nguyên lý chuyển động,…). Người cho phép chúng diễn ra vì lợi ích cho chúng ta “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (x. Rm 8, 28) và “vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người  không hề hối tiếc” (Rm 11, 29).

Như vậy, thử thách cần thiết cho đời sống đức tin chúng ta không? hoặc mục đích của các thử thách trong đời sống đạo là gì? Lời giải đáp rõ ràng và đầy thuyết phục được tìm thấy trong thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ: “những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội - vàng là của phù vân hay hư mất chóng quá mà còn phải chịu thử lửa…” (x. 1Pr 7). Vàng thật hay giả còn cần đến lửa, huống chi đức tin chúng ta quý giá hơn mọi châu báu, kim cương, vàng bạc phù hoa, chắc hẳn cần đến lửa thử thách tinh luyện.

Sau cùng, không gì xác đáng hơn lời Thánh Gia-cô-bê nhắn nhủ chúng ta: “đức tin có vượt thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo (thực thi bác ái, tha thứ, trông cậy, hy sinh…), để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (x. Gc 1, 3) và “phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách (đặc biệt trong đời sống đức tin, đời sống đạo), vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa an cho những ai yêu mến Người” (x. Gc 1, 12).

Chúa mời con nên Ki-tô hữu

Chẳng muốn con sống khác Ki-tô.

Muôn vàn ân sủng Ngài không tiếc

Nhưng cần thử luyện với lửa thiêng

Cho con một lòng luôn kiên định

Vượt qua thử thách với đức tin. Amen!

 

home Mục lục Lưu trữ