Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1361750

MỤC TỬ

MỤC TỬ

 

Chúa Kitô đã sống lại và khởi đầu một hành trình mới. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh xuống thế làm người, rao giảng Tin mừng cứu độ, chịu mọi sự khốn khó cho đến chết, chết trên thập giá và đã sống lại hiển vinh. Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa tiếp tục ban phát ân sủng cho mọi người ở mọi thời. Thời gian chuẩn bị đã mãn và hồng ân cứu độ gần kề, mỗi người hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ bằng cách ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Trong thơ thánh Phêrô đã loan tin: Anh em hãy ăn năn sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần (Tđcv 2, 39). Suốt dọc lịch sử ơn cứu độ, dân Chúa luôn được các tiên tri, các ngôn sứ và các thầy dậy luôn nhắc nhở hãy sám hối, hãy trở về cùng Thiên Chúa và tránh xa đường gian tà tội lỗi. Khi Chúa Kitô khi bắt đầu ra rao giảng Tin Mừng cũng đã mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến.

Nước trời đã đến và đang hiện diện giữa chúng ta. Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã đến. Cửa Nước trời đã mở. Ai muốn vào Nước trời thì phải đi qua cửa hẹp. Chúa Kitô là cửa và là Mục tử tốt lành. Chúa Giêsu nói: Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên (Ga 10, 2). Chúa Kitô là Đấng Trung Gian của vạn vật và là Đấng Cứu Chuộc loài người. Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một lối ngõ vào Nước trời: Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân (Ga 10, 9). Ngài là nguồn mạch ban sự sống. Chúng ta không có Danh nào khác, ngoài danh Đức Kitô chịu đóng đinh. Nước trời được ví như kho tàng châu báu chôn giấu trong thửa ruộng, nước trời giống như người đi gieo hạt giống nơi cánh đồng và nước trời cũng giống như hạt cải bé tí đã trở thành cây lớn...Chúa Giêsu đã mở cửa Nước trời đón nhận mọi người có lòng thành muốn chung hưởng hạnh phúc muôn đời.

Chúng ta biết có rất nhiều con đường và nhiều cửa dẫn chúng ta vào Nước trời. Nhưng đâu là con đường chính thật? Chúa Giêsu phán: Ta là đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6). Chúa là mục tử tốt lành. Qua Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được của nuôi thân và thỏa khát trong nguồn suối mát. Ngài biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Có rất nhiều người cũng đang nỗ lực tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Có những người chưa bao giờ được nghe nói về Thiên Chúa hoặc chưa bao giờ được nghe Tin Mừng cứu độ. Có nhiều người vẫn cố gắng đi tìm chân lý sự sống nhưng chưa được giác ngộ. Trong thế giới hôm nay, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều các tôn giáo khác nhau. Chung qui tất cả các tôn giáo đều mong muốn đi tìm ý nghĩa của cuộc sống đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Nói chung, tất cả các tôn giáo đều cố gắng giúp các tín đồ vào qua các cánh cửa hẹp giúp tu thân luyện tánh để nên tốt lành.

Thực tế cuộc sống cũng không thiếu những thành phần lạm dụng đội lốt chủ chiên dẫn dắt bầy chiên đi lạc đường. Họ chạy theo thị hiếu của con người và muốn mở một lối riêng tìm vào nước trời. Biết rằng chúng ta không thể đi tìm một tổ chức tôn giáo hoàn hảo tuyệt đối ở trần gian để đi theo. Vì các thành viên của các tôn giáo đều là những con người yếu đuối, tội lỗi và dễ lầm lạc. Trong đạo Kitô Giáo, chúng ta có Chúa Kitô là đầu nhiệm thể và tất cả chúng ta là chi thể mầu nhiệm Chúa Kitô nên được gọi là Hội Thánh. Giáo Hội lữ hành dưới thế bao gồm đủ mọi thành phần có những người thánh thiện và cũng có những người yếu đuối tội lỗi. Chúa Kitô mong muốn cứu chuộc mọi người, không phân biệt giai cấp, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ và cả niềm tin. Con đường cứu độ đã mở. Mỗi cá nhân có quyền tự do quyết định chấp nhận hay không. Thiên Chúa không ép buộc chúng ta phải vào Nước trời, nhưng cửa Nước Trời đang mở và Chúa sẵn sàng đón nhận.

Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã đích thân gặp gỡ từng môn đệ để qui tụ họ lại. Chúa đã sai họ ra đi làm nhân chứng cho những gì mắt thấy và tai nghe. Thánh Phêrô ý thức vai trò của người thủ lãnh, ngài đã không chùn bước nhưng luôn khuyên dạy và làm gương: Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa và khuyên bảo họ mà rằng: Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này (Tđcv 2, 40). Mỗi người có trách nhiệm về chính đời sống mình. Chúa không cứu chuộc chung chung hay một khối đông mà là từng cá nhân. Chúa muốn từng tâm hồn cải đổi và trở về cùng Chúa. Chúng ta tự do trả lẽ về mình trước mặt Chúa. Về vấn đề đời sống tâm linh, chúng ta không thể sống dựa dẫm vào nhân đức hay sự thánh thiện của người khác. Chúa đến kêu gọi và cứu độ từng con người. Mỗi người có sự kết hợp mật thiết riêng tư với Chúa và không ai có thể thay thế.

Theo gương của Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, mỗi vị chủ chăn nên học biết sự khao khát và nhu cầu của từng tín hữu. Gần gũi với từng cá nhân trong tình trạng tâm hồn và hoàn cảnh sống của họ. Chúng ta thường có khuynh hướng đối xử theo đàn, theo đoàn và theo nhóm, mà quên đi những nhu cầu thầm kín của mỗi tâm hồn. Khi xưa, Chúa chọn và gọi tên từng tông đồ vào làm vườn nho của Chúa. Ngày nay cũng thế, ơn Chúa ban cho mỗi người một khác, nhưng đều mưu cầu lợi ích chung cho toàn Giáo Hội. Mỗi cá nhân được mời gọi để thể hiện chức năng và khả năng riêng biệt để góp phần chung trong các sinh hoạt của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta chỉ có một vị thủ lãnh là Chúa Kitô Phục Sinh. Nhìn lên thập giá Chúa để cùng suy niệm và sống sứ mệnh đã được trao ban.

Truyện kể: Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói: Phải, chúng tôi đã biết ngài: Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói: Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi. Nhưng người đó vãn khăng khăng bảo: Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến Nghĩa Trang và chỉ cho thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Thánh Phêrô đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh từ đầu cho tới khi kết thúc. Phêrô đã chia sẻ về thái độ của Chúa Giêsu đang khi bị hành xử: Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe, Người phó mình cho Đấng xét xử công minh (1Petr 2, 23). Chúa Kitô phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha. Người chịu đựng mọi nhục hình mà không hề than van và kêu trách. Người đã đi qua tất cả mọi chặng đường khổ đau dưới thế, nếm đủ mọi khổ cực cay đắng và đã hiến thân trọn vẹn để chuộc lại sự sống cho loài người. Chúa tiếp tục hiện diện giữa loài người để mong cầu sinh ích cho mọi tâm hồn. Lời Tin Mừng của Chúa có thể bị chế diễu, bị tẩy chay và chống đối, nhưng Chúa Kitô vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự thay lòng đổi dạ của mỗi tâm hồn. Quí giá biết bao khi có một tâm hồn tội lỗi biết quay trở về đường ngay nẻo chính.

Điều kiện tiên quyết để bước vào cửa Nước trời là lòng ăn năn sám hối và trở về. Chúng ta là tín hữu rất hạnh phúc vì có lời Tin Mừng, có Giáo Hội, có cộng đoàn và có Chúa Kitô là mục tử tốt lành. Chúng ta đừng sợ hãi. Hãy đứng dậy, hướng về phía trước và can đảm tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Chúng ta không còn bị bơ vơ lạc lõng, nhưng cùng sống chung trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em (1Petr 2, 25). Giá máu châu báu của Chúa sẽ không trở thành vô ích nhưng mang lại sự sống và sự sống thật.

Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử Nhân Lành, xin chữa lành và tẩy sạch mọi vết nhơ trong tâm hồn chúng con. Xin dẫn đưa chúng con vào nguồn sống đích thực để cùng được chung hưởng hạnh phúc trường sinh bất diệt.

 

12.Mục tử và Cửa chuồng chiên

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất đó là người mục tử.

Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiêu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.

Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh của chuồng chiên. Mỗi khi tổ chức Năm Thánh, thì trong ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự một nghi lễ đặc biệt, đó là đóng và mở một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có nền tảng trong Kinh Thánh tượng trưng cho ơn thánh đổ xuống nhân loại, cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua, cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất.

Với lời khẳng định: Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.

Còn chúng ta thì sao? Hãy đến với Đức Kitô và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Thánh Phaolô đã diễn tả: xưa kia anh em là những con chiên lạc, giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử Đấng canh giữ linh hồn anh em.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện sau đây: Trời mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm thấy ấm hẳn lên.

Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

 

13.Cửa chuồng chiên

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.

Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.

Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.

Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.

Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống

Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?

Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.

Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.

Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.

Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.

Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.

Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.

Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?

2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?

3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?

 

14.Chúa Chiên Lành – R. Veritas.

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.

Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.

Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.

Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.

Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.

Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Amen.

 

15.Mục tử thật - mục tử giả

Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật - hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.

Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.

Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.

Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi dạy đàn con".

Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được cân nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.

Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.

Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.

Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.

 

16.Chúa Chiên Lành – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.

Về người Mục Tử:

Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã... Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.

Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”

Về phía chiên:

Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.

Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.

Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.

Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?

Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.

Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con - Alter Christus của Chúa - được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ