Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1361096
NÀY BÀ LÒNG TIN CỦA BÀ MẠNH THẬT
NÀY BÀ LÒNG TIN CỦA BÀ MẠNH THẬT
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Đọc Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu khen thì ít, mà chê thì nhiều. Tuy khen ít chê nhiều, nhưng lời khen chê của Chúa đều rất xác đáng.
Những người bị Chúa chê là giới chức đạo Dothái, các tông đồ, như tông đồ Phêrô chẳng hạn (x. Mt 14,31; 16,8).
Những người được Chúa khen duy nhất có mình ông Na-tha-na-en là người Israel (x. Ga 1,47), còn toàn là những người ngoại giáo, như viên sĩ quan Rôma (x. Mt 8,10) và người đàn bà xứ Ca-na-an trong Tin mừng hôm nay.
Người đàn bà Ca-na-an hôm nay đến xin Chúa trừ quỷ cho con mình: “Lạy con Vua Đavid, xin thương xót tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Nhưng Chúa làm thinh, chẳng đáp lời nào. Thấy thế bà càng năn nỉ kêu xin, năn nỉ đến nỗi làm cho các môn đệ phải thưa với Chúa rằng: “Xin Thày thương giúp bà ấy, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi!”
Chúa liền bảo: “Thày chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel mà thôi!”
Không ngã lòng, bỏ cuộc, người đàn bà vẫn kiên trì kêu xin: “Lạy Ngài, xin hãy đến cứu giúp tôi!”
Chẳng cần úp mở nữa, Chúa bèn nói một cách cửng cỏi, sỗ sàng: “Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó!”
Không phật lòng, không tự ái trước lời nói của Chúa, người đàn bà nhã nhặn khiêm nhường đáp lại: “Đúng vậy, thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ.”
Thật độc đáo! Hiếm thấy người đàn bà nào như thế! Thái độ của bà khiến Chúa phải ngỡ ngàng và cất lên lời khen ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy!”
Không biết trong cộng đoàn chúng ta có người đàn ông đàn bà nào như người đàn bà Ca-na-an hôm nay hay không? Nếu có thì xin cho biết?
Người đàn bà ngoại giáo đã vượt qua được thử thách mà Chúa đưa ra, để bày tỏ lòng tin chân thành vào Chúa và được Người khen ngợi. Còn chúng ta thì sao? Trong mọi thử thách, đau thương của cuộc đời, chúng ta có vượt qua được không?
Chắc chắn nhiều lúc chúng ta đã ngã lòng và oán trách Chúa khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chứ không vững lòng tin tưởng như người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an.
Ý thức mình yếu đuối như vậy, chúng ta hãy cùng nhau xin Chúa tha thứ, cùng nhau tuyên xưng đức tin, để niềm tin của chúng ta được ngày thêm vững vàng và được Chúa khen ngợi như người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.
10.Củng cố đức tin.
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.
11.Chúa Nhật 20 Thường Niên
(Suy niệm và chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng lòng mình để đón tiếp muôn dân nước, tức là bất kỳ ai, dù thuộc dân tộc nàò, nếu bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa chân thật.
Is 56: 1, 6-7
Bài Đọc I là sứ điệp loan báo ơn cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận vào cộng đồng mình những kiều cư, những ai kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Rm 11: 13-15, 29-32
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của thánh nhân, vì dân Do thái, dân Chúa chọn, từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.
Mt 15: 21-28
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật câu chuyện Đức Giê-su với một người đàn bà xứ Ca-na-an. Cuối cùng Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của người đàn bà ngoại giáo nầy và ca ngợi đức tin của bà.
BÀI ĐỌC I (Is 56: 1, 6-7)
Đoạn trích nầy mở ra phần thứ ba của sách I-sai-a. Phần thứ ba nầy, xét toàn bộ, được gán cho vị ngôn sứ biệt danh là I-sai-a đệ tam (ch. 56-66), vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới danh nghĩa của vị ngôn sứ I-sai-a vĩ đại (ch. 1-39).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 trước Công Nguyên). Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố sứ điệp gởi đến muôn dân nước.
1. Những kiều cư.
Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn những “kiều cư” ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người ngoại bang đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân cư bị đưa đi lưu đày. Đối với những người ngoại bang đến định cư lập nghiệp, luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi nào đó. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19: 33-34).
Trái lại, những những người “nhập cư”, tức những người ngoại quốc sinh sống trong một thời gian hạn định nào đó, không hưởng được bất kỳ một quyền lợi nào khác ngoài phong tục tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản là những người này được cư xử với lòng khoan dung độ lượng, đôi khi bị đồng hóa với những kẻ thù; họ bị cấm không được tham dự phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.
“Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56: 1).
Qua những lời này, vị ngôn sứ, “nhân danh đức công chính và điều chính trực”, tố cáo những kỳ thị như thế. Đức Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người thân cô phận hèn.
2. Yêu mến Danh Người.
Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát để đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en:
“Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa
để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta” (Is 56: 6)
Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế, “Yêu mến Thánh Danh” đồng nghĩa “yêu mến chính Thiên Chúa”. Diễn ngữ: “Yêu mến Thánh Danh”, không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Kiểu nói: “Để phụng sự”, không gợi lên bất kỳ phụng sự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” chỉ chung các tín hữu.
Trong câu nói: “hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm”, điểm nhấn được đặt trên việc tuân giữ “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy một tầm quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu hiệu biệt phân, nhờ đó người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.
Câu nói: “cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta”, tóm gọn những đòi hỏi được liệt kê ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-ma, ông Co-nê-li-ô.
3. Sứ điệp phổ quát.
Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và tháp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa:
“Đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56: 7a).
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Đức Chúa. Các “thánh vịnh lên Đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:
“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,
tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con” (Tv 43: 4),
Chúng ta cũng gặp thấy như vậy trong lời khẳng định của Thiên Chúa qua vị ngôn sứ của mình:
“Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận,
những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7b).
Lời khẳng định nầy mang một cung điệu đặc biệt, một cung điệu mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại lời khẳng định nầy khi Ngài xua đuổi những người buôn bán ra khỏi khuôn viên Đền thờ, chính xác là nơi dành cho dân ngoại mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Hành vi của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng tất cả điều nầy rồi sẽ sớm biến mất, nhưng nơi nầy phải được dành cho muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15, 29-33)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với các bài đọc khác của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy: cả ba bài đọc đều nói về việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân.
Việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân nầy càng khẩn thiết hơn khi dân Do thái, nói chung, cố chấp trong sự mù quáng của mình. Đó là nguyên do tại sao thánh Phao-lô ưu phiền. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người Ki-tô hữu gốc dân ngoại: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại”.
Thánh Phao-lô tự đặt mình lần lượt vào trong hai viễn cảnh: viễn cảnh của chính ngài, vị Tông Đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.
1. Viễn cảnh của vị Tông Đồ dân ngoại (Rm 11: 13-15)
Đọc đoạn văn này lần đầu, chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô hiến trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: làm cho đồng bào Do thái của mình ganh tị khi thấy việc dân ngoại mỗi ngày mỗi thêm đông được dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thế chỗ cho dân Chúa chọn. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong hoạt động truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định kèm theo của thánh nhân: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. Thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của “một ít người” như mầm mống và bảo chứng cho việc cảm hóa đức tin của tất cả mọi người. Nếu dân Do thái bị gạt ra bên lề, đó lại là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại. Nếu giai đoạn đầu tiên là ơn cứu độ phổ quát cho muôn người, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy khi mà toàn thể dân Ít-ra-en được tái tháp nhập vào cộng đồng đức tin, tức là “từ cõi chết bước vào cõi sống”.
2. Viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương (Rm 11: 29-33)
Đối với vị Tông Đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ơn gọi của dân Chúa chọn không thể nào đổi thay: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”.
Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”. Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng để có thể cư xử với nhau một cách chính trực và nhân ái, nhưng họ đã lún sâu vào trong sự bất chính và tôn thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Đến phiên mình, dân Do thái, đến thời Thiên Sai, đã không thấy ánh sáng và cũng đã không vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc bất phục tùng của dân Ít-ra-en và sự hoán cải của dân ngoại. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc dân Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các Tông Đồ khác đã quyết định quay về phía dân ngoại. Nhưng, còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý trong ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo lối hành văn biền ngẫu đặc thù của dân Do thái, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Chúa xót thương: chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân ngoại đã có thể trở lại cùng Thiên Chúa, thì cũng chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân Ít-ra-en cũng sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh nhân tóm lược kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.
TIN MỪNG ( Mt 15: 21-28)
Câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều và việc đám đông dân chúng không nhận ra sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su quyết định tập trung sứ vụ của mình vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Thế nên, “Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Hiện thời, Ngài đang ở miền đất dân ngoại sau khi đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông dân Do thái và những luật sĩ, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để tìm cớ hãm hại Ngài. Trong bầu khí thanh bình của miền đất dân ngoại, Ngài dành hết thời giờ cho các môn đệ để chuẩn bị sứ vụ tương lai của họ.
Dân Ca-na-an là tên gọi cổ xưa của dân Phê-ni-xi. Thánh Mát-thêu sử dụng cách nói “người đàn bà Ca-na-an” không vì quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì tên gọi nầy nhắc lại quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà Sa-ma-ri” để gợi lại ở nơi tên gọi nầy những thù hiềm thâm căn cố đế giữa hai dân tộc nầy (Ga 4: 8). Thêm nữa, khi nói: “người đàn bà Ca-na-an” chứ không “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn xác định nguồn gốc của bà: bà nầy là dân ngoại, chứ không phải là một người Do thái đến sinh sống ở miền đất Ca-na-an.
1. Cuộc gặp gỡ của người đàn bà Ca-na-an với Đức Giêsu:
Người đàn bà Ca-na-an đã nghe người ta đồn thổi về Đức Giê-su và bà đã biết Đức Giê-su hiện đang có mặt ở trong miền. Vì thế, không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, bà đã vội vả đến gặp Ngài để khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con gái bà như của chính bà”, còn William Barclay thì xoáy sâu vào tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su”.[1]
Trong lời kêu xin của mình: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”, bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu thiên sai: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc thù của Do thái giáo cho Đức Giê-su? Hay đúng hơn thánh ký muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên? Lời khẩn cầu nầy vang lên như cung điệu phụng vụ: “Xin Chúa, xin thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích phổ quát vĩ đại của câu chuyện.
2. Thái độ của Đức Giê-su.
Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Người đàn bà không hề nhụt chí vẫn một mực bám riết theo Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ cũng phải cảm thương.
3. Một đức tin chịu thử thách.
Cảm thương người phụ nữ này vừa lẻo đẻo theo sau vừa khẩn khoản van nài đến độ các môn đệ không thể nín lặng được nên cầu xin Đức Giê-su lên tiếng bảo bà ấy về đi cho xong chuyện. Đức Giê-su đáp lại bằng cách từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” (Mt 10: 5-6).
Quả thật, Đức Giê-su đặt ưu tiên sứ vụ của Ngài cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng xót thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản ngoại giáo tại Ca-pha-na-um cho người đầy tớ đau nặng của ông được lành bệnh. Có biết bao nhiêu sự việc tương tự như thế giữa câu chuyện của viên quan ngoại giáo và câu chuyện người đàn bà Ca-na-an. Ngài không khíp kín từ tâm đối với dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa của sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian của các môn đệ Ngài, họ sẽ thực hiện tất cả mọi chiều kích rộng mở cho muôn dân nước.
Lời từ chối thẳng thừng của Đức Giê-su cũng không làm người phụ nữ này chùn bước. Bà đến sụp lạy mà van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Đức Giê-su nói thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại!”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” từ Hy lạp “kunaria” gợi lên chó cưng nuôi trong nhà, đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song đối của mình, đặt bối cảnh nầy vào “trong một nhà nọ” (Mc 7: 24). Quả thật, câu nói của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ và được định vị trong cùng một bối cảnh trong nhà: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.
4. Đức tin rực sáng của người đàn bà Ca-na-an.
Người đàn bà Ca-na-an đáp trả với tất cả tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết trong quê hương của Ngài: “Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh dân Do thái, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.
Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên quan ngoại giáo. Ngài nhậm lời khẩn cầu của bà.
5. Dấu chỉ của bánh.
Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi dưỡng no nê bánh vật chất, nhưng chỉ là tiên báo bánh thần linh, như bánh man-na trong sa mạc tiên báo những thiện hảo của thời Mê-si-a. Chính từ bánh nầy mà người đàn bà Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Vương Quốc mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh nhận được chỉ thị của Đấng Phục Sinh là phân phát trọn vẹn cho muôn dân.
____________________
[1] W. BARCLAY, The Gospel of Matthew, bản dịch tiếng Việt tập, nhà xuất bản Đức Bà Hòa Bình, tập II, tr. 100.
12.Dân ngoại cũng là dân của Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, cũng không chỉ là Thiên Chúa của các Kitô-hữu, nhưng Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người, dù họ có nhận biết Ngài hay không.
1. Dân ngoại sẽ được thờ phượng Thiên Chúa
Đối với người Do Thái, những người không thuộc chủng tộc Do Thái đều là dân ngoại. Với nhiều người Do Thái, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người Do Thái, nên Thiên Chúa không là Thiên Chúa của dân ngoại. Trong bài đọc sách tiên tri Isaya hôm nay Thiên Chúa đã đối xử với dân ngoại như dân của Ngài, nghĩa là, họ được vào đền thờ Thiên Chúa, được dâng lễ vật trên bàn thờ ở Yêrusalem. Đền thánh được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, chứ không còn chỉ riêng của người Do Thái nữa.
Người Việt Nam mới được nghe rao giảng Tin Mừng Đức Yêsu Kitô vào thế kỷ thứ 17 (1615) hoặc trước đó một chút, tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tổ tiên chúng ta trước đó. Hiện tại khoảng hai phần ba loài người không là Kitô-hữu, tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của những người đó. Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, của những người nhận biết Ngài, và của cả những kẻ chưa và không nhận biết Ngài nữa.
Như người cha người mẹ sinh ra con cái. Người cha người mẹ vẫn là cha là mẹ, dù người con có nhận biết, có chấp nhận người cha người mẹ hay không. Cũng tương tự vậy với Thiên Chúa. Thiên Chúa như người cha, cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ lành người dữ. Ngài yêu thương tất cả mọi người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi.” Tất cả những gì tốt đẹp con người làm được, là đều nhờ bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài giúp con người làm những điều thiện hảo, Ngài ban cho họ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong Ngài khi làm những điều tốt lành.
2. Bài học khiêm tốn từ dân Do Thái
Dân Do Thái được Thiên Chúa thương yêu và tuyển chọn; Ngài đã dẫn dắt Abraham, đưa dân ra khỏi Aicập về đất hứa, dạy dỗ dân trong đường lối của Ngài qua các thẩm phán, qua các tiên tri. Thật sự Thiên Chúa đã yêu thương dân Do Thái cách đặc biệt, đặc biệt đến độ người Do Thái diễn tả như thể Thiên Chúa không yêu thương các dân tộc khác.
Ấy thế nhưng theo quan điểm của nhiều Kitô-hữu, khi người Do Thái từ chối không tin Đức Yêsu, thì tình yêu và ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa được chuyển cho người Kitô. Kitô-hữu là những người tin vào Đức Yêsu, và được trở nên con Thiên Chúa một cách đặc biệt. Thánh Phaolô là người Do Thái, rất xác tín tình yêu của Thiên Chúa đối với người Do Thái, cũng phải chấp nhận điều này.
Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với con người. Con người, nhất là Kitô-hữu, cần có thái độ rộng mở để đón nhận Thánh Thần vẫn đang làm việc nơi con người trong thế giới này, qua trung gian Kitô-hữu và cả qua trung gian những người khác, ngay cả khi họ không là Kitô-hữu. Bài học của người Do Thái dạy Kitô-hữu rằng, không được đóng lòng trước mặc khải của Thiên Chúa, không được giới hạn tự do và ân sủng của Thiên Chúa, không được bắt Thiên Chúa làm theo ý mình hoặc chỉ theo những điều hiểu biết của mình. Thiên Chúa có tự do của Ngài. Gió muốn thổi đâu thì thổi, Thánh Thần muốn tác động nơi ai tùy Ngài. Không được đòi Thánh Thần phải làm theo trí ý giới hạn của mình. Thiên Chúa là Thiên Chúa, tư tưởng của Ngài vượt trên tư tưởng của con người, hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua những tác động của Ngài trên hoàn vũ này, dù qua bất cứ ai, bất cứ tôn giáo nào, bất cứ thể chế nào. Ngày xưa, vua dân ngoại Cyrus cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng, trở thành Đấng Massiah của Thiên Chúa để dẫn đưa dân Do Thái từ đất lưu đày trở về, thì có gì cấm cản Thiên Chúa dùng những thể chế này thể chế nọ diễn tả ý định của Thiên Chúa. Bài học khiêm tốn mở lòng lắng nghe, cần cho Kitô-hữu học trong suốt đời mỗi người. Nếu không mở lòng lắng nghe, thì sẽ phản ứng giống người Do Thái trước Tin Mừng Đức Yêsu Kitô.
3. Đức Yêsu cũng đổi ý
Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay cho thấy Đức Yêsu đổi ý, hoặc cái nhìn của Đức Yêsu được mở ra, hoặc Đức Yêsu cũng lắng nghe tiếng Thiên Chúa qua những biến cố trong cuộc sống hằng ngày. Thoạt đầu Đức Yêsu không muốn chữa lành con gái người phụ nữ Canaan, vì Ngài cho rằng “Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel,” cho dù ngay cả các tông đồ cũng muốn Đức Yêsu cho chị ta điều chị ta xin vì chị ta cứ theo làm phiền các ngài hoài.
Đức tin của chị phụ nữ vào Đức Yêsu “con chó cũng được ăn đồ rơi rãi từ bàn ăn của chủ,” làm Đức Yêsu phải đổi ý và đổi quan điểm cái nhìn. Đức tin của chị phụ nữ lớn thật, điều chị xin thì chị được. Lời nói diễn tả đức tin của chị phụ nữ có tính cách quyết định.
Một vài suy nghĩ xin được chia sẻ. Thứ nhất, chính Thiên Chúa đã tác động nơi chị phụ nữ, làm chị ta tin tuyệt đối vào Đức Yêsu. Nếu chị phụ nữ không tin vào Đức Yêsu, vào lòng tốt của Ngài, thì chắc chị ta đã không nài nỉ như vậy. Thứ hai, Đức Yêsu đã nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi chị phụ nữ; Ngài đã nhận ra ý định của Thiên Chúa Cha, và Ngài đã đổi ý. Thứ ba, giá trị con người không phải là “quân tử nhất ngôn” kiểu của vua Hêrôđê; khi lỡ hứa sẽ cho con gái của Hêrôđia điều cô xin, thì khi cô xin đầu Yoan Tẩy Giả, ông cũng làm. Dám làm theo điều mình thấy đúng lúc này, mới là con người có bản lãnh, mới là người tuyệt vời. Thứ tư, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với chúng ta qua những biến cố hằng ngày, qua người này người kia, qua cả những người đang làm phiền chúng ta hoặc không cùng quan điểm với chúng ta. Thứ năm, Ngôi Lời Thiên Chúa một khi đã làm người, thì Ngài chia sẻ thân phận con người của chúng ta mọi đàng, ngay cả những giới hạn về tri thức, Ngài cũng cần phải lắng nghe và học hỏi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Giữa một Kitô-hữu, một người ngoại, và Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn? Xin bạn chia sẻ lập trường quan điểm của bạn.
2. Khi nói Đức Yêsu cũng cần lắng nghe và vâng theo ý Thiên Chúa Cha, có làm giảm giá trị của Đức Yêsu không? có sai thần học không? Tại sao?
3. Quan niệm nào chi phối đời sống của bạn nhất? Xin bạn chia sẻ quan niệm này, và cho biết tại sao.
13.Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Thiên Chúa muôn đời vẫn là một “ẩn số” mà nhân loại cứ phải khao khát kiếm tìm trong khắc khoải khôn nguôi, như Thánh Augustinô đã từng thốt lên: “Chúa đã dựng nên con, nên lòng con mãi khắc khoải kiếm tìm cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”. Một thái độ tự hào, tự mãn, cho rằng mình đã chiếm được Thiên Chúa, đã nắm bắt chân lý, để rồi không còn biết vươn mình lên đi tới hay khiêm hạ khát khao kiếm tìm lại chính là một thái độ phản lại niềm tin, hay một niềm tin, nếu có, đã trở nên nghèo nàn và rỗng tuếch.
Nhưng nếu đức tin là một cuộc lên đường tìm kiếm, thì, tiên vàn đó lại là cuộc kiếm tìm của chính Thiên Chúa.
Nếu khởi đầu lịch sử, khi Thiên Chúa đến kiếm tìm và gặp gỡ nhân loại “trong cơn gió nhẹ ban chiều” ở nơi vườn diệu quang (St 3,8) để hàn huyên tâm sự lại đã gặp một A-đam, E-va trần truồng đang núp trốn, thì Ngài đã không thất vọng nản lòng để quay mặt đi xa; nhưng rồi sau đó đã tiếp tục lên đường không mệt mõi, kêu gọi, ước giao, hẹn thề hết Áp-ra-ham, đến Gia-cóp, hết I-sa-ac đến Giuse…sau đó là Mô-sê với bao chịu đựng nhọc nhằn của 40 năm trường hành về Đất Hứa, cũng chỉ để hình thành một Dân Tộc của niềm tin, một Dân của Giao ước. Mà đâu chỉ có dân ít-ra-en; cho dù trong phương án cứu độ, đó chính là Dân ưu tuyển. Thiên Chúa kiếm tìm tất cả mọi người, mở lối đưa đường cho tất cả những ai thành tâm thiện chí khát khao Ngài, kiếm tìm Ngài và chân chất sống theo những chỉ dạy của Ngài khắc ghi trong đáy thẳm tâm hồn, như lời sứ ngôn I-sa-i-a trong BĐ 1 hôm nay: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người…”
Và cuộc kiếm tìm của Thiên Chúa đã đến đỉnh điểm khi “Ngài ban Con Một, để ai tin vào Người con đó sẽ không phải chết nhưng được sống vĩnh hằng” (Ga 3,16).
Quả thật, trong cuộc hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đã từ Bắc xuống Nam, từ Đông lên Tây, dọc ngang khắp vùng Palestina để “kiếm tìm” những con chiên lạc mà đưa về cho Thiên Chúa một đàn chiên và một chủ chiên.
Ngoài những con chiên lạc “con giòng cháu giống thuộc dân ưu tuyển Ít-ra-en, Chúa Giêsu lại bôn ba sang các miền ngoại giáo lân cận để tìm kiếm nơi cộng đồng dân ngoại những tâm hồn khao khát chân lý cứu độ để dẫn họ về trong chân lý và tình thương.
Tin mừng Matthêu hôm nay đã tường thuật những bước chân tiến về vùng ngoại giáo Tyrô và Siđon của Chúa Giêsu; và chính nơi vùng ngoại đạo nầy, Ngài đã gặp được một người đàn bà ngoại giáo Canaan nhưng “mạnh tin”.
Bà mạnh tin khi bà nhận ra chàng thợ mộc đến từ Na-da-rét kia chính là “Con Vua Đa-vít”, một danh xưng mà vào thời điểm đó, chỉ có những tấm lòng khát mong và đầy tràn niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai đang đến mới sử dụng.
Bà mạnh tin khi bà xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng chữa con bà khỏi quỷ ám, một quyền năng chỉ dành cho Thiên Chúa.
Bà mạnh tin khi vững vàng trông cậy vào tình yêu vô biên của chính Chúa Giêsu bất chấp những thử thách nặng nề là sự làm ngơ, chối từ và cả khinh miệt.
Chính ở nơi tâm hồn cương nghị và đầy khiêm hạ của người phụ nữ ngoại giáo Canaan nầy, Chúa Giêsu đã tìm được niềm an ủi trong công cuộc “đi bủa lưới giăng câu” các linh hồn trên những nẻo đường đất lạ.
Và khởi đi từ đó, Ngài đã truyền cho các Tông Đồ hãy mạnh dạn “đưa thuyền ra chỗ nước sâu”, “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng Tin Mừng.”
Thế nhưng, chúng ta cũng đừng quên, Chúa Giêsu đã không ít lần đã thất bại thảm thương; mà cuộc thất bại cay đắng nhất trên con đường rao giảng Tin Mừng lại xảy ra trên chính quê hương Na-da-rét của Ngài. Chính tại nơi đây, Ngài đã “không làm được phép lạ nào” chỉ với lý do: “Vì họ cứng lòng tin”.
Nếu ở tại đất ngoại giáo có được một tâm hồn phụ nữ Canaan sẵn sàng đánh đổi niềm tin vào Ngài bằng mọi giá, thì tại Giê-ru-sa-lem, đã có hàng trăm người đã sẵn sàng chối từ Ngài để chọn Ba-ra-ba, vì họ không thể đánh cược niềm tin vào một con người rách nát thảm thương sắp bị Philato tuyên án tử.
Họa hằn lắm mới có một Lê-vi giã từ bàn đếm tiền của người thu thuế để bỏ lại đằng sau tất cả sự giàu có trần tục mà lên đường làm môn đệ của Ngài; hay một Gia-kê lùn tịt về thân xác và cả nhân phẩm hay đức độ, sẵn sàng cho đi tất cả của cải trần gian để sống cho những giá trị của cái nghèo Nước Trời.
Vâng, những người ở Na-da-rét hay Giê-ru-sa-lem đó cùng với các tư tế và biệt phái, hay những người quyền cao chức trọng lúc bấy giờ họ tin rằng họ đã có sắn một đức tin chân truyền đúng mực, họ không cần phải mở lòng ra để đón nhận hay khát mong một “tin mừng” huyển hoặc nào nữa, nhất là một “Tin Mừng” gần như đối nghịch hẳn với tâm thức và sự kiếm tìm của họ mà ông Giêsu kia đã loan báo như “khó nghèo, hiền lành, trong sạch, yêu thương kẻ thù, tha thứ luôn luôn, chọn đường thập giá…”
Đặc biệt, “giải pháp thập giá” quả là một thử thách quá lớn mà họ không dễ gì vượt qua hay chọn lựa, bởi họ đã quen chọn cho mình con đường dễ dàng, nhung lụa, vinh quang…
Tuy nhiên, cũng giống như người đàn bà Canaan khi đối diện với những thử thách nghiệt ngã, người trộm bên hữu đã mở lòng để tin vào một con người chỉ còn tấm thân tàn ma dại: “Lạy Thầy, khi nào Thầy về Vương Quốc của Thầy, xin nhớ đến tôi”.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay gần như truy vấn tất cả mọi người chúng ta về hành trình đức tin của chính mình.
Chúng ta gần như sống và thực hành đức tin như một chuyện “đã rồi”, một “chọn lựa dễ dàng và không hề thử thách”.
Vẫn còn đó nhiều người trong chúng ta sẵn sàng quay lưng lại với Giáo Hội với nhà thờ, chỉ vì một tự ái không đâu trước một lời quỡ trách.
Vẫn còn đó nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh chã còn thiết tha cầu nguyện và trung thành đến với Chúa chỉ vì Chúa chưa đáp ứng những khát vọng và lời nguyện xin.
Vẫn còn đó những người mang tâm trạng oán trách và cả hận Chúa vì phải đương đầu với những khổ đau, thất bại, bệnh tật hay đói nghèo…
Và chung chung, chúng ta muốn giữ “nguyên trạng đức tin” mà không cần phải đặt lại, kiếm tìm hay hoán cải…
Trên những nẻo đường thế giới hôm nay Chúa vẫn sục sạo đi tìm. Nhưng con đường Chúa đề nghị để theo Ngài không bao giờ tầm thường và dễ giải.
Câu trả lời của người phụ nữ ngoại đạo Canaan hôm nay và thái độ đức tin đầy khiêm nhu tín thác của bà mãi mãi là một điểm quy chiếu cho mọi cuộc lên đường tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Vâng, đó là một mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen.
14.Sức mạnh của lòng tin
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn "sức mạnh của tư tưởng tích cực" (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.
Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.
Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là: "nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được." (Mt 17,20)
Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:
Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: "Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.
Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui.
Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!"
Chúa Giêsu lại từ chối: "Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel".
Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.
Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn: "Lạy Ngài xin cứu giúp tôi".
Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: "Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con". Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".
Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa.
Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: "Ta đã chữa lành con, hãy về bình an", nhưng Ngài lại nói: "Đức tin của con đã cứu chữa con".
Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. "Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin" (Mt 13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó... Người lấy làm lạ vì họ không tin" (Mc 6, 5-6)
Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. "Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được." (Mt 17,20)
Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi!" (Mt 14, 22 - 33).
Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.
15.Lời nguyện chân thành
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: "Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ở trên cao". Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa. Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình. Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.
Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:
Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.
Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: "đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy". Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.
Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự dữ.
Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ: "Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất". Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.
16.Tình mẹ thật bao la
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo, được chia sẻ rất nhanh trên mạng. Riêng trên Facebook Jack Mummy, có tới 16.000 lượt chia sẻ. Đằng sau lời kêu cứu này, là câu chuyện số phận buồn của người phụ nữ khát khao làm mẹ đã 2 lần mất con.
Đó là chuyện đau lòng của Chị Hà Thị Quỳnh Nga (Đông Anh, Hà Nội) hạ sinh người con thứ 3 vào lúc 14g30 ngày 3/6 tại bệnh viện Bạch Mai. Nhưng niềm hạnh phúc mong manh bỗng nhiên sụp đổ khi sáng ngày hôm sau, bác sĩ chuẩn đoán bé trai Nguyễn Hà Hải Đăng bị nhiễm độc do nhóm máu hiếm ORh-.
Cùng ngày hôm đó, bác sĩ huy động người nhà truyền máu cho Hải Đăng, nhưng không ai thuộc nhóm máu này. Gượng dậy sau nỗi đau mới mổ khi sinh, chị Nga vội vã lên mạng nhắn tin cho người em với những dòng vội vàng, nhờ chia sẻ lên Facebook: “Mình mới sinh con được một ngày, con thuộc nhóm Rh-, cần được truyền máu. Mình đang ở Bệnh viện Nhi Hà Nội, cầu xin mọi người giúp mẹ con mình. Mình mới mất 2 cháu rồi, đây là cơ hội làm mẹ còn lại duy nhất của mình. Xin mọi người giúp mẹ còn mình với, mọi người liên hệ số điện thoại….”. Chị gửi tin và hi vọng, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu.
Nhờ thông tin lan nhanh trên mạng, một số người có cùng nhóm máu đã nhanh chóng đến viện hỗ trợ máu cho bé Hải Đăng. Hiện tại, nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng Facebook, cháu Hải Đăng đã thay máu 3 lần, qua được cơn nguy kịch.
Quả là tình mẫu tử đã khiến chị Nga đầy khôn ngoan và kiên trì để cầu cứu cho đứa con. Dù mong manh. Dù tỉ lệ rất thấp, nhưng nếu cứu được con, chị sẵn lòng làm tất cả. Chị đã biết sử dụng thông tin hiện đại để viết lên lời kêu cứu của mình. Chị đã được toại nguyện. Tình mẫu tử cao sâu đã cứu con chị khỏi lưới hái tử thần.
Đó cũng là hình ảnh kiên cường của người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã mang con đi vái tứ phương, nhưng vô vọng. Bệnh tật vẫn bám chặt đời con bà. Sự sống như đang dần trôi qua với con bà. Bà vẫn quyết chí dành giựt lại sự sống cho con bà. Bà đã khiêm tốn đến với Chúa, dù rằng bà là người ngoại đạo. Bà đã van xin Chúa, dù rằng lời van xin tưởng chừng như Chúa bỏ ngoài tai. Bà vẫn không ngã lòng. Bà vẫn níu kéo Chúa bằng những mẩu đối thoại thật khiêm tốn và kiên trì. Bà chỉ nhận mình là một thân phận thấp hèn, nhưng vẫn ao ước được đón nhận hồng ân từ Chúa.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.
Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn, vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.
Thế mà vẫn còn đó, những người mong được phép lạ chữa lành bệnh tật mà lại chẳng bao giờ bày tỏ lòng thành qua những giờ kinh, qua thánh lễ hay cầu nguyện riêng với Chúa hay Đức Mẹ. Vẫn còn đó, những người muốn được phép lạ có cuộc sống sung túc, thế mà chẳng bao giờ chú tâm vào công việc. Vẫn còn đó, những người muốn Chúa giúp vượt qua hoạn nạn, nhưng chẳng bao giờ nỗ lực đứng lên để Chúa dìu bước.
Quyền năng Chúa vẫn bao trùm trên con người. Phép lạ của Chúa vẫn tiếp diễn trong cuộc sống hôm nay. Nhưng để đón nhận phép lạ của Chúa, đòi hỏi con người nỗ lực vươn lên và bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa. Như người phụ nữ trong Tin Mừng, bà chỉ có thể đón nhận phép lạ của Chúa sau bao nhiêu những nỗ lực phấn đấu, cùng với niềm tin trung kiên.
Cuộc sống luôn có những khó khăn, xin cho chúng ta biết chạy đến với Chúa trong niềm tin phó thác. Ước gì chúng ta không bao giờ bỏ cuộc trước gian nguy, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
17.Lòng tin của bà mạnh thật
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đôi khi Chúa Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc cho thấy một trong những thái độ lạ kỳ của Chúa. Ngài là con người đầy lòng nhân hậu, Ngài đoái thương mọi người và dùng quyền năng của Ngài để cứu giúp mọi người, nhưng sao đứng trước nỗi thống khổ của một bà góa, Ngài xem như không màng tới mà có thái độ như dửng dưng. Tại sao? Chúng ta không thể hiểu. Có người cho rằng Ngài muốn thử thách lòng tin của bà. Có lẽ cũng có lý, nhưng chưa hẳn là như thế. Có thể có một lý do nào khác.
Miền Tia và Xiđôn là miền mà người Do Thái là thiểu số, Ngài đến đó như muốn yên nghỉ một lúc và để có thể gần gũi với các môn đệ và huấn luyện họ, sau khi đã chạm trán với những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Maccô nói rõ hơn, Ngài không muốn ai biết Ngài. Nhưng rồi người đàn bà ngoại giáo này đã khám phá ra Ngài và đến cầu cứu trong cơn hoạn nạn thống khổ của mình. Bà dùng một tước hiệu mà chỉ có người Do Thái mới biết là gọi Chúa bằng tước hiệu Con Vua Đavít, tức là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế của người Do Thái. Bà cũng nói rõ là con gái của bà đang bị quỉ ám. Những người mù ở Giêricô cũng gọi Ngài như thế. Đó là điều đáng chú ý nhất đối với Chúa Giêsu. Nhưng lạ lùng thay, Ngài lại làm ngơ, không trả lời.
Chúng ta không thể biết Chúa muốn gì khi tỏ thái độ như thế? Ngài là Đấng nhân hậu vô biên làm sao Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của một bà mẹ như thế? Chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa biết rõ tâm hồn của bà mẹ khốn khổ đó, nhưng cũng muốn dùng dịp này cho các môn đệ một bài học. Có lẽ cũng thử thách đức tin của người mẹ đó, nhưng Ngài cũng chú tâm đến các môn đệ, cho họ một bài học rất quí báu.
Ngài đi từ cách đối xử của người Do Thái đến cách đối xử của Ngài. Người Do Thái kỳ thị những người ngoại đạo. Ngài cũng làm như thế đối với người phụ nữ ngoại giáo này. Ngài tỏ ra dửng dưng, không hề để ý tới lời cầu khẩn của bà. Nhưng bà không nản vì thái độ chối từ đó, bà tiếp tục nài nĩ mãi đến nỗi các môn đệ bực bội và xin Ngài cho bà ấy về đi. Ngài lại dùng cách nói của người Do Thái để trả lời cho bà và các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Hai lần bị xua đuổi, nhưng người mẹ này không nản chí và tiếp tục nài xin. Lần thứ ba Ngài vẫn như không màng gì đến lời cầu khẩn của bà và khẳng định quyền lợi của người Do Thái: “Không nên lấy bánh trên bàn của con cái mà ném cho chó”. Đây là một cách nói của người Do Thái, xem người ngoại như loài chó thôi. Người mẹ đau khổ này vẫn bền chí, bám vào hy vọng cuối cùng: “Thưa Thầy, lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Và đây chính là kết cuộc. Chúa Giêsu ngỡ ngàng trước lòng tin can đảm của người đàn bà đau khổ: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”.
Nói rằng Chúa muốn thử thách lòng tin của người phụ nữ này cũng đúng, và khi thấy bà mạnh tin Chúa đã đáp lời bà. Nhưng đối với các môn đệ, đây là một bài học khác. Chúa Giêsu cho thấy cần phải có một cái nhìn mới chứ không chỉ khư khư trong những quyền lợi của mình, của nhóm đặc quyền của mình. Chúa Giêsu cho thấy Ngài vẫn tôn trọng quá khứ nhưng Ngài nhìn về tương lai. Phải vượt qua những rào cản của thủ tục, của những thói quen lâu đời. Ngài nhìn mọi người như nhau, lương hay giáo. Mọi người đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời. Tuy người Do Thái là ưu tiên, nhưng không chỉ là Do Thái. Thánh Phaolô phải đương đầu với những người Kitô hữu đầu tiên thân Do Thái và phải vất vả lắm mới có thể chấp nhận người ngoại vào đạo. Đối với Ngài, không còn ranh giới giữa Do Thái hay Hy Lạp, mà mọi người đều được quyền thừa hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Thánh Phêrô cũng gặp khó khăn khi chấp nhận người ngoại trở về với Chúa. Từ khi ngài được thị kiến từ trời những người quanh ngài mới chấp nhận cởi mở. Việc truyền giáo mới bắt đầu đi vào một đường lối mới.
Công Đồng Vatican II đã mở rộng con đường đối thoại với các tôn giáo và đã cho thấy quyền tự do tôn giáo của mọi người, vì con người có một phẩm giá cao cả. Không ai được quyền xem người khác là “chó” như người Do Thái xưa. Chúa Giêsu phá đổ mọi ranh giới ngăn cản con người hiệp thông với con người. Ngài từ từ giúp các môn đệ hiểu đường hướng mới của Ngài bằng cách chấp nhận một cách rõ ràng đức tin của người phụ nữ ngoại giáo kia.
Chúa Giêsu cũng muốn cho thấy rằng đức tin không là của riêng ai, hay của một dân tộc nào mà của mọi người. “Những con chó con” trở thành thực khách trong bàn tiệc cứu độ của Chúa. Đức tin cũng không là những tập tục tôn giáo hẹp hòi, mà là một hướng đi nhắm thẳng vào Chúa. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu hẹp hòi vẫn còn giữa những tập tục xưa cũ, rườm rà, trở thành những chướng ngại cho người khác tìm về với Chúa. Nhiều linh mục vẫn còn óc hẹp hòi đòi hỏi những thủ tục rườm rà, những điều kiện gắt gao khiến nhiều người rời bỏ đức tin.
Một đám cưới. Khi đàng trai Công giáo đến rước dâu. Đàng gái là gia đình ngoại đạo chấp nhận cho con theo đạo. Khi bước vào nhà gái, thấy trên bàn tiệc có thắp mấy cây nhang. Cả bên đàng trai bỏ ra khỏi nhà vì nói rằng họ không ăn đồ cúng. Chủ nhà giải thích: “Chúng tôi không có cúng mà vì ruồi quá chúng tôi dùng nhang để đuổi ruồi thôi”. Nhưng đàng trai không chịu nghe lời giải thích và bỏ ra về. Chúng ta nghĩ sao? Đó chỉ là một ví dụ. Sự hẹp hòi đã đưa đến những hậu quả tai hại.
Chúa Giêsu đã bị người Do Thái lên án vì Ngài đã sống cho con người chứ không cho một thủ tục nào. Ngài đã từng tuyên bố: “Ngày sabat được tạo cho con người chứ không phải con người được tạo nên cho ngày sabat”.
Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy những ranh giới, màu da, sắc tộc, xã hội, tôn giáo, kinh tế… Con người hôm nay chỉ biết sống cho quyền lợi cá nhân hay phe nhóm của mình và loại trừ tất cả những người không cùng chung chí hướng với mình, đã tạo nên một tình trạng căng thẳng trong tất cả mọi lãnh vực. Có những nơi bách hại tôn giáo cực kỳ dã man. Chúa Giêsu luôn chủ trương hiền lành và khiêm nhượng. Người Công giáo chúng ta cần can đảm không nhượng bộ về đức tin, nhưng vẫn luôn chấp nhận mọi người nhất là những người thiện chí để cùng nhau xây dựng một xã hội nhân đạo hơn.
Chúa Giêsu muốn cho thấy, Kitô giáo là không có ranh giới. Mọi người là con của Cha trên trời. Giáo hội vẫn là gia đình của mọi dân tộc. Những lễ hội như những Đại Hội Giới Trẻ thế giới là những dịp để mọi người thấy rằng Giáo hội là của mọi người, phục vụ mọi người, và mọi người là anh em, không còn phân biệt chủng tộc màu da, nam hay nữ. Tất cả đều cùng nhau vui mừng trong tình yêu của Cha trên trời, cùng nhau ca tụng Cha bằng ngôn ngữ của mình, bằng tiếng hát, bằng nền văn hóa đặc thù của mình.
Chúa Giêsu nhậm lời người phụ nữ ngoại giáo kia, cho chúng ta thấy rằng phải xóa bỏ những rào cản của chính chúng ta, những thói quen kỳ thị, những tiên kiến, những tị hiềm của chúng ta để hướng tới những người anh em khác đang cần được che chở, được ủi an, được khích lệ, để gieo niềm vui cho một xã hội đã tiều tụy vì tham lam và đầy gian ác. Hãy làm sao cho con tim chúng ta luôn rộng mở để biết lắng nghe những tiếng gọi của biết bao nhiêu người đang bập bềnh trong một cuộc sống không còn hy vọng.
Muốn thế, chúng ta cần trở về với Chúa, với tình yêu vô biên của Ngài, vì chúng ta luôn hẹp hòi, bảo thủ trong pháo đài cá nhân của chúng ta. Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ra khơi”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng bảo: “Hãy ra đi”.
Chúng ta ngại chăng? Vì chúng ta không dám ra khơi, chúng ta sợ mất mát không dám cho đi. Làm sao Chúa Giêsu được yêu thương nếu chúng ta ngại ngùng không dám dấn thân? Có muôn ngàn cách dấn thân. Có những người rời bỏ gia đình để đi phương xa rao truyền Danh Thánh Chúa, có những người dấn thân giúp đỡ người cùng khốn, những nạn nhân của những bệnh ngặt nghèo, tranh đấu cho những mục tiêu nhân đạo… Nhưng cũng có những cách dấn thân khác. Dấn thân không có nghĩa là phải chỉ là đi xa hay bỏ việc gia đình, mà là đem vào cuộc sống thường ngày tình yêu của Chúa thay vì chỉ nghĩ đến đồng tiền hay lợi nhuận. Dấn thân trong cầu nguyện liên lỉ, bằng những hy sinh nhỏ bé, những việc phục vụ đơn thường và vui tươi, trong gia đình cũng như trong mọi môi trường khác. Là người tin Chúa, chúng ta không thể không làm gì cho Chúa hay cho anh em. Chúng ta có rất nhiều công việc phải làm, tùy theo khả năng, môi trường của mỗi người. Điều quan trọng là chúng ta có thực sự muốn làm việc cho Chúa hay không.
Chúa Giêsu, con người đã triệt để dấn thân vào trần gian, đã mở cho chúng ta con đường mới, con đường của tình yêu. Ngài vẫn còn tiếp tục công việc của Ngài qua những con người hèn kém của chúng ta và muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Ngài vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng chính thịt máu Ngài để chúng ta can đảm hơn. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến”, như đã bảo Phêrô đi trên mặt nước. Hãy đến ăn lấy tấm bánh thần linh, hãy là thực khách của bàn tiệc tình yêu để dám cho đi, cho đi tất cả cuộc đời trong khiêm nhu và tin yêu.
18.Lòng tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang ơn cứu độ cho nhân loại. Dân Do-thái là một dân tộc văn minh có lề luật hướng dẫn và có cơ cấu tổ chức chu đáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn lại hơn hai ngàn năm về trước, cuộc sống của dân làng rất đơn sơ mộc mạc. Ngày đó, họ chưa có các phương tiện văn minh kỹ thuật về các phương diện khoa học trong đời sống. Nhất là về vấn đề thông tin, in ấn và truyền thông. Các tiên tri đã nỗ lực rao giảng và luôn nhắc nhở con dân quay về với Thiên Chúa: Đây Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện (Is 56, 1). Sự rao giảng bằng cách truyền đạt rỉ tai và âm thầm loan truyền sứ điệp một cách rất chậm rãi qua các thế hệ. Lời rao giảng được ghi chép bằng tay cuộn thành từng cuốn sách được cất giữ và lưu truyền.
Lịch sử ơn cứu độ đi vào hành trình cuộc sống cụ thể của xã hội. Dân bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc lân bang tôn thờ các tượng thần gỗ đá vô cảm. Các vị Thần này do con người làm nên, tặng ban và phong thần để có thể đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Nhiều người đã ưa thích chạy theo thói đời dễ dãi, buông thả và thụ hưởng. Các Vị Thần như các bình phong để con người tự điều khiển theo ý muốn của mình. Các nhà cầm quyền dựa vào uy tín của thần minh để thống trị và cai quản dân chúng. Các tôn giáo ngoại bang chủ trương thờ cúng các thần minh theo nhu cầu của cuộc sống, tạo nên các thần mưa, gió, bão, núi, sông, mặt trời, mặt trăng, thần bò vàng, thần cây cối… và các thần vô danh. Gọi chung là Đa Thần Giáo. Các nghi lễ cúng bái thờ lạy các Thần chỉ là những hình thức bề ngoài trống rỗng. Các Thần chỉ là gỗ đá, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và chỉ trơ trọi như một xác không hồn.
Trong bài phúc âm kể câu truyện người đàn bà quê ở Canaan, vùng đất của dân ngoại, đến kêu van Chúa Giêsu trừ quỷ cho con gái của bà. Con người thường bị ma quỷ quấy phá và ám ảnh. Tự sức con người đành bó tay. Các Thần Minh cũng chẳng có quyền hành gì trên ma quỷ. Người đàn bà đã chạy đến với Chúa xin cứu giúp: Bà kia đến lạy Người mà nói: Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Mt 15, 25). Chúa đã thử thách bà về lòng tin. Bà tỏ ra có đủ sự khiêm nhượng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Bà không ngại nhận mình chỉ là ‘chó con’, cũng được thừa hưởng ân lộc của Thiên Chúa: Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc ấy, con gái bà đã được lành (Mt 15, 28). Tuy sống chung đụng giữa những người dân ngoại, nhưng không phải mọi người đều lệ thuộc hay tỏ lòng thờ kính những vị Thần vô tri vô giác. Nhiều người vẫn muốn đi tìm sự thật và nguyên nhân cùng đích của cuộc đời. Trên thực tế, có biết bao nhiêu người bị hướng dẫn lầm lạc trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Họ tôn thờ những vị thần mà họ không biết. Thật đáng thương!
Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa mạc khải và hướng dẫn sống trong lề luật và huấn lệnh. Chúng ta biết rằng sống trong khuôn khổ của các giới răn cũng không phải là dễ dàng. Vì tâm lòng con người mong muốn được cuộc sống tự do không bị ràng buộc. Trải qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện biết bao sự lạ lùng và ưu đãi dân hết mực, vậy mà dân chúng cứ chứng nào tật đó. Sự cám dỗ của cuộc sống vô thần hay đa thần giáo luôn kéo lôi con người trở lại sự vô tri. Vì nhiều người tin vào Đa Thần sẽ tự tìm thỏa mãn mọi khát vọng thấp hèn của bản năng, mà không bị lương tâm cắn rứt. Nhưng dân Do-thái được hướng dẫn để đặt niềm tin vào Thiên Chúa độc thần. Một Thiên Chúa có uy quyền và yêu thương con dân của Người. Thiên Chúa nhân từ, công bằng và thưởng phạt công minh.
Qua hơn hai ngàn năm, Tin mừng tiếp tục được rao truyền khắp nơi. Số người tin Chúa có gia tăng nhưng so với dân số thế giới, số tín hữu không tăng thêm. Giáo Hội có nhiều phát triển không đồng đều như những sóng triều khi thịnh khi suy tùy thuộc vào mỗi địa phương, văn hóa, chủng tộc và ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn chung chung qua những sinh họat của Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Đô, tại các Nước thứ ba và trong các Nước đang phát triển, chúng ta thấy có tia hy vọng và lạc quan. Các cuộc tổ chức Đại hội, đại lễ và các cuộc hành hương rất hoành tráng, qui tụ đông người và long trọng. Các nhà thờ tiếp tục được xây dựng mới và sửa chữa tu bổ rất khang trang. Số giáo dân vẫn sinh hoạt sầm uất và mỗi năm có thêm nhiều các tân tòng. Có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa trong các Dòng tu đạo đời.
Tuy nhiên, thực tế tại các nước văn minh, nhất là Âu Châu, niềm tin tôn giáo đã dần bị phai mờ. Ngay tại nơi Chúa Giêsu giáng trần, con số Kitô hữu rất khiêm nhượng. Tại Belem, Giêrusalem và Nazarét, những nơi thánh trở thành các di tích làm chỗ cho khách hành hương kính viếng. Các đền thờ, nhà thờ và hội đường ít người lui tới. Giáo dân thưa thớt và bị chia năm sẻ bảy, mỗi nhóm tôn giáo sở hữu một khu vực. Đa số các tín hữu bị ảnh hưởng bởi các trào lưu trong xã hội. Nhiều người đang chạy theo cuộc sống thực tế mong tìm cái ăn, cái uống, hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi. Không còn quan tâm nhiều đối với đời sống tâm linh và sự sống ngày sau.
Đôi khi chúng ta cảm thấy hơi bi quan vì nhiều người Kitô hữu không còn muốn thực hành đạo. Các nhà thờ bị trống vắng nhiều. Con số tín hữu tham dự lễ Chúa Nhật giảm sút đáng kể. Thờ ơ với các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Hôn Phối. Ơn gọi dâng hiến phục vụ thiếu hụt. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa vì thiếu tài chánh nâng đỡ. Tin đạo, nhưng không muốn sống và thực hành các giới răn của Chúa hay huấn quyền. Rất nhiều tín hữu cấp tiến đồng ý chấp nhận những điều nghịch với giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức luân lý như vấn đề công bằng xã hội, quyền sự sống, quyền lao động, về hôn phối của các cặp đồng tính, ngừa thai, phò phá thai, trợ tử và tử hình... Có nhiều tín hữu không chống đối hay từ bỏ niềm tin, họ vẫn mang danh Kitô hữu, nhưng sống theo chủ nghĩa tương đối. Quan niệm sống đạo một cách cởi mở và dễ dàng. Đây là vấn đề nhức nhối trong mục vụ. Một số các thành viên vẫn tham dự đầy đủ các sinh họat tôn giáo, nhưng không muốn thay đổi cuộc sống nội tâm. Nhất là sự liên hệ trong đời sống gia đình như ly dị, tái hôn và sống chung bất hợp pháp. Đời sống luân lý bị tụt dốc gây rất nhiều những khó khăn trong vấn đề giáo dục con cái và xây dựng gia đình, cộng đoàn.
Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để thể hiện ơn cứu độ. Chúa tiếp tục ban ơn: Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc (Rm 11, 29). Dân Do-thái vẫn được Thiên Chúa chúc phúc qua các thế hệ. Người Do-thái có một sức mạnh phi thường. Họ phải đối đầu với cả khối Ả-Rập ở Trung Đông, nhưng vì sống còn, họ vẫn hiên ngang chiến đấu. Họ là những người đi tiên phong trong các lãnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học. Dân Do-thái là dân tộc thông minh và mạnh mẽ. Nguồn gốc của Đạo Công Giáo do chính người Do-thái dựng xây. Chúng ta có Đức Maria, Phêrô, các Tông đồ, môn đệ và các Giáo đoàn tiên khởi đều là người Do-thái. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho họ, vì đôi khi: Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người (Rm 11, 32). Thánh Phaolô đã có những suy tư rất chân thật và hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con. Giữa cơn phong ba bão tố của niềm tin, cậy và mến, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa xin ơn phù trợ. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam