Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 64

Tổng truy cập: 1361021

NẾU ĐƯỢC CẢ THẾ GIỚI

NẾU ĐƯỢC CẢ THẾ GIỚI

 

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong đời. Cám dỗ bởi ma quỷ trong sa mạc. Cám dỗ bởi đám đông đòi xem phép lạ từ trời. Cám dỗ bởi nhiều người thách xuống khỏi thập giá.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ bởi chính Phêrô, người mà Ngài đã đặt làm nền tảng cho Hội Thánh. Cơn cám dỗ này nguy hiểm biết bao, vì đến từ tình thương của một người môn đệ.

Phêrô không thể nào chấp nhận được chuyện Đấng Mêsia phải chịu khổ đau và chịu chết.

Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này. Ngài nói với ông như nói với Xatan trước đây: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy!"

Phêrô đã đi trước Thầy. Ông quên mất vị trí đi sau của người môn đệ. Ông không ngờ mình trở nên viên đá làm Thầy suýt vấp.

Lối nghĩ của Phêrô rất tự nhiên, rất "người", nhưng đó không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa.

Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy và dám mất tất cả vì Thầy.

Sống ở đời ai cũng tranh phần được, và sợ mất.

Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.

Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời: mất công, mất của, mất thì giờ, mất uy tín, mất tương lai và mất cả mạng nữa.

Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự họ mất vì Thầy Giêsu, họ đều được lại.

Mất tạm thời để giữ được mãi mãi.

Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Lắm người tưởng mình được, hoá ra lại mất

Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được.

Chúng ta cần suy nghĩ sâu về cái được, cái mất, để không phải hối hận sau này.

Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả.

Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng, ích kỷ.

Không cần đợi sau cái chết, ta mới thấy mình được.

Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu thương là những cái được ta có ngay từ đời này.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ đời. Ai cũng phải tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa để thắng được người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công giữa chợ đời không?

Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác thập gía. Có khi nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá nào hiện nay bạn còn sợ vác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Chúa đẵ chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

 

2.Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa,

mà là lối nghĩ của loài người” (Mt 16,23).

Thầy Giêsu đã mắng anh Phêrô như thế

khi anh muốn can ngăn Thầy chấp nhận cuộc Khổ nạn.

Lời can ngăn của Phêrô là một cám dỗ rất mạnh đối với Thầy,

vì đó là lời can ngăn của người môn đệ đầy mến thương:

“Xin Thiên Chúa thường đừng để Thầy gặp chuyện ấy !”

Để thắng được cơn cám dỗ mạnh mẽ này, đến từ Phêrô,

Thầy Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ không kém.

Ẩn sau lời của Phêrô, Thầy thấy có lời đường mật của Xa-tan,

lời mà Thầy đã nghe từ buổi đầu trong hoang địa.

Xa-tan đã rủ rê Thầy bái lạy nó để được mọi vinh hoa trần gian.

Nó muốn Thầy chinh phục thế gian bằng con đường tắt (Mt 4,9).

Thầy Giêsu đã cương quyết bảo nó cút đi.

Và bây giờ Thầy cũng đòi Phêrô trở về đúng chỗ của mình.

“Hãy lui lại đằng sau Thầy !”

Môn đệ phải là người đi sau Thầy, chứ không dẫn đường đi trước.

Thật ra Phêrô can ngăn Thầy là điều hiểu được.

Ông mới được Thầy khen, vì nhờ Chúa Cha, ông biết Thầy là Đấng Kitô.

nhưng khuôn mặt đặc biệt của Đấng Kitô ấy, ông chưa rõ.

Từ thời vua Đa-vít, Thiên Chúa đã hứa ban cho Ítraen một Đấng Kitô.

Đấng này sẽ là một vị vua thuộc nhà Đa-vít,

mà vương quyền và ngai vàng thì vĩnh cửu (2 Sm,11-16).

Trải qua cả ngàn năm, dân Ítraen vẫn chờ Thiên Chúa giữ lời hứa.

Vào thời Đức Giêsu, người dân vẫn mong có Đấng Kitô đến

để cứu Ítraen khỏi tay Rôma, và cho dân hưởng thái bình no ấm.

Ai cũng nghĩ Đấng Kitô phải là Đấng toàn thắng, mạnh mẽ oai hùng,

nên khi nghe Thầy Giêsu nói về thân phận khổ đau thất bại của mình,

Phêrô đã cho thấy ông không thể nào chấp nhận được (Mt 16,22).

Ông không thể chấp nhận hình ảnh Đấng Kitô bị hành hạ và bị giết.

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa” (Mt 16,23).

Kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lối nghĩ của loài người.

Đức Giêsu Kitô không chỉ cứu dân Ítraen, mà cứu cả nhân loại.

Ngài không cứu họ khỏi nô lệ Rôma, nhưng cứu khỏi nô lệ tội lỗi.

Ngài không cứu độ bằng chiến thắng, nhưng bằng thất bại và cái chết.

Qua đó, Ngài hiên ngang bước vào vinh quang vĩnh cửu (Mt 16,27).

Ngài không phải chỉ là một người được Thiên Chúa xức dầu và sai đi,

Ngài còn là chính Thiên Chúa Ngôi Lời làm người.                                         

Điều Thiên Chúa thực hiện vượt xa những gì Ngài đã hứa.

Ngài làm trọn lời hứa một cách khó hiểu và lạ lùng.

“Sự phong phú, khôn ngoan và tri thức của Chúa sâu thẳm biết bao!

Quyết định của Người khôn dò khôn thấu” (Rm 11,33).

Thầy Giêsu muốn các môn đệ thuộc mọi thời đại

tiếp tục đi sau Thầy, chia sẻ cùng một thân phận như Thầy,

từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất mạng sống mình vì Thầy,

coi cả thế gian nhẹ hơn cuộc sống đời sau.

Họ không lùi bước trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì họ tin Thầy đã được phục sinh và sẽ lại đến trong vinh quang

để thưởng phạt từng người tùy theo việc họ làm (Mt 16,27).

Lạ lùng thay con đường Thầy Giêsu và bao thế hệ môn đệ đã đi !

Chỉ mong chúng ta đừng nghĩ theo kiểu thường tình con người,

nhưng mỗi ngày chấp nhận sống những nghịch lý của Thiên Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó,

thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa, và thuộc về Chúa,

thì Chúa đã sống cho con,

và thuộc về con từ lâu.

 

3.“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con”

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)

1. Đức Giê-su mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua

Sau câu hỏi thâm sâu và riêng tư: “Anh em nói Thầy là ai?” (x. Mt 16, 13-20: bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước), Đức Giê-su bắt đầu dẫn các môn đệ đi sâu hơn vào trong tương quan “thuộc về nhau” với Ngài. Thật vậy, Đức Giêsu bắt đầu bày tỏ, nghĩa là mặc khải (thánh Mác-cô nói, Ngài dạy các môn đệ):

Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Đức Giêsu mặc khải, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức Ki-tô:

* Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.

* Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn chữa lành.

* Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.

* Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.

***

Như thế, tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, không phải chỉ là phát biểu chính xác, và đôi khi là “thuộc lòng”, căn tính thần linh của Người trong tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn là môt lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Thánh Phêrô đã không hiểu “bài học” của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận điều Đức Giê-su giảng dạy về con đường Ngài phải đi:

Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”

Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa, nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi không thuộc về Thiên Chúa.

Sau này, thánh Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó của Thầy Giê-su và đã đi đến cùng con đường thương khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường thương khó của mình, con đường thương khó của thế hệ mình. Con đường thương khó của chúng ta là ơn gọi trong một hoàn cảnh, một gia đình, một cộng đoàn, một Hội Dòng cụ thể mà tôi đang thuộc về.

2. Sequela Christi (đi theo Đức Ki-tô)

Sau khi mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ, các môn đệ đang hiện diện với Người và các môn đệ của Người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay:

Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (c. 24)

Như thế, như thánh Phê-rô và các tông đồ, khi chúng ta được ơn hiểu biết, yêu mến Đức Kitô và muốn đi theo Ngài, hay nói như ngôn sứ Giê-rê-mia trong bài đọc I: “Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Gr 20, 7), chúng ta được mời gọi đi cùng một con đường Đức Kitô đã đi.

Và đó là con đường vượt qua. Nhưng con đường vượt qua là gì? Là con đường của vất vả và khổ tâm, như chính ngôn sứ Giê-rê-mia đã kinh nghiệm: “Vì lời Đức Chúa mà con đây chịu sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20, 8); là con đường của dâng hiến và cho đi, như thánh Phaolo khuyên bảo:

Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. (Rm 12, 1)

Chúng ta hãy chiêm ngắm cách Đức Maria đón nhận, gắn bó và yêu mến Đức Kitô, để nhận thấy rằng, từ lúc thưa “xin vâng”, Đức Maria đã phải cho đi, dâng hiến, vất vả và “cực lòng” như thế nào. Thánh Giuse cũng vậy, vì để cho Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa cần tới hai lời “xin vâng”. Giống như trong đời tu, để cưu mang và làm chứng cho Đức Kitô, Chúa không chỉ cần lời xin vâng của bản thân chúng ta, nhưng của chị em, của anh em trong cùng cộng đoàn và Hội Dòng nữa.

Nhưng như chính Đức Giê-su mặc khải và ban cho chúng ta lời hứa, chính khi vượt qua vất vả và khổ tâm, vượt qua khó khăn lúc cho đi và dâng hiến, chúng ta được dẫn tới an nghỉ và niềm vui, tới hoa trái nhiều gấp trăm lần điều mà chúng ta đã cho đi, tới việc nhận lại sự sống hoàn toàn mới từ nơi Đức Chúa, là Thiên Chúa của sự sống và sự sống lại. Và có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm này: niềm vui của sự sống mới là ở bên kia sự chết, nhưng đã xâm nhập vào sự sống hôm nay của chúng ta rồi, vào chính lúc chúng ta cho đi và dâng hiến rồi. Như thánh Augustin nói, trong tình yêu thì không có vất vả, nếu có vất vả, thì vất vả này đã được yêu mến rồi. Và như thánh Phao-lô nói: “tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta”, đến những khó khăn vất vả, đến việc cho đi và dâng hiến, nhưng nếu vì lòng mến, lòng mến của Đức Kitô dành cho chúng ta, và lòng mến chúng ta dành cho Đức Kitô, chúng ta sẽ kinh nghiệm được niềm vui lớn lao và sâu xa, niềm vui đích thật và bền vững mà không ai hay hoàn cảnh nào có thể lấy mất được.

3. Qui luật muôn đời của sự sống

Lời mời gọi “Ai muốn đi theo Thầy” mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối, vì tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:

Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất;nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “Hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác; đó con đường của tấm bánh, phải được bẻ ra và nghiền nát để nuôi sống, thậm chí trở thành sự sống cho con người.

* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.

* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.

***

Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài.

 

4.Thập giá và người môn đệ

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.

Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu. Hơn nữa, trong Phúc Âm, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người. Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.

Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê và chịu đóng đinh trên cây thập giá đó. Con đường thập giá Chúa đã đi qua là con đường của sự nhẫn nhục, hy sinh vì tình yêu nhân loại. Con Thiên Chúa không dùng một phương tiện khác nhẹ nhàng hơn để cứu độ con người, mà lại dùng thập giá với những nhục hình đau khổ, và như thế, những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường ấy, nhờ đó mà bản thân họ được tinh luyện, đồng thời họ góp phần nâng đỡ anh chị em. Chúa có thập giá của Chúa và mỗi người chúng ta có thập giá của mình. Con người không chào đời bằng nụ cười, nhưng bằng tiếng khóc, và rồi suốt cuộc đời họ là những trăn trở triền miên, những lo toan cuộc sống. Họ luôn phải đối diện với bao khó khăn trong đời. Hành trình của người môn đệ là hành trình thập giá: “Ai muốn theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chúa nhấn mạnh đến “thập giá mình”, có nghĩa là gánh nặng và trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta, là điều không ai tránh khỏi trong kiếp người.

Thập giá là “định mệnh” chung cho những ai muốn dấn thân phục vụ cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Ngôn sứ Giêrêmia vì trung thành truyền đạt giáo huấn của Chúa mà bị những người đương thời ghen ghét và hành hạ vu khống. Ông đã trở nên trò cười cho thiên hạ. Có những lúc ông chán nản định bỏ công việc Chúa trao, nhưng mỗi khi ông định từ bỏ sứ vụ, thì ông lại thấy đau khổ vô cùng. Nhiệm vụ ngôn sứ như một duyên nợ với ông, rất khó khăn nhưng không dễ chối từ. Gặp nhiều đau khổ và chống đối, ông vẫn say mê Chúa. Dầu có những lúc chán nản, ông vẫn trung thành với Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia là hình ảnh Đức Giêsu chịu đau khổ (Bài đọc I).

Tuy nhiên, trong quan niệm chung của con người, thật không dễ dàng chấp nhận thập giá. Thánh Phêrô không thể hiểu và chấp nhận thập giá. Ông đã phản ứng trước lời tiên báo của Chúa về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. Trước đó, ông vừa tuyên xưng Đức tin vào sứ mạng thiên sai của Chúa và lời tuyên xưng này được Chúa khen ngợi. Ấy vậy mà khi nghe Chúa nói về khổ hình, ông vội can: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”. Suy nghĩ của thánh Phêrô cũng là lối suy nghĩ của khá nhiều người tín hữu chúng ta. Họ chỉ thích tin và theo Chúa để được những điều may mắn. Họ chọn lựa những điều luật mà họ cho là phù hợp và không liên lụy đến quyền lợi cá nhân mình. Khi gặp phải những gian nan, họ “rửa tay” để không dính dáng đến mình. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Bài đọc II). Quả vậy, không có sự thờ phượng nào tốt đẹp cho bằng một cuộc sống thánh thiện, thể hiện qua đức mến Chúa yêu người.

Có nhiều người thời nay đề nghị không trưng bày Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trong gia đình cũng như trong nhà thờ. Họ cho rằng hình ảnh này gợi lại sự hận thù và bạo lực. Tuy vậy, Giáo Hội trưng bày hình ảnh Đức Giêsu chịu khổ hình để giúp các tín hữu hiểu về tình thương bao là của Thiên Chúa thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu. Qua thập giá, chúng ta học được bài học của lịch sử. Hơn nữa, hình ảnh Đức Giêsu trên thập giá là lời mời gọi hãy loại trừ bạo lực và hãy tôn trọng phẩm giá của con người. Bởi lẽ thập giá và Chúa Giêsu đau khổ vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo đói, nơi những trẻ em bất hạnh, những nạn nhân của kỳ thị và áp bức chiến tranh. Cùng chung tay xóa bớt sự nghèo đói, thất học, cùng bênh đỡ những người bị xúc phạm nhân phẩm, là vác thập giá cuộc đời để đi theo Đức Giêsu. Khi nhìn lên thập giá, mỗi chúng ta được mời gọi hãy cố gắng để đừng tạo ra thập giá cho những người đang sống xung quanh mình. Ý thức và thực hiện được những điều này, cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao!

Sau cùng, đừng quên rằng thập giá chỉ mang tính nhất thời, vì sau thập giá là sự phục sinh. Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá không tồn tại mãi mãi. Nếu biết đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và hy sinh của Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ được tôi luyện và nên thánh.

 

5.Thập giá - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Rôma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối người Hy Lạp, Thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai Cập thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ơn phúc. Các nước tiểu Á và Đông Á vẽ Thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.

Nhìn chung nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ Thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ Thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau, nhưng khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là khổ giá, một đàng thương đau để được sự sống trường sinh nên được gọi là Thánh giá

Thánh giá này tiên tri Giêrênia như muốn từ chối vì nó nặng quá, sức ông đã kiệt quệ, không thể vác nổi, sức loài người quá yếu. Nhưng Thiên Chúa đã chiêu mộ ông, thiêu đốt ông bằng ngọn lửa cháy bừng trong lòng ông, âm ỉ trong xương cốt ông, làm ông vùng dậy la to, kêu lớn: “Bạo lực và tàn phá” cho những kẻ suốt ngày nhạo cười, phỉ báng ông. Họ muốn sống vinh quang, họ phải dẹp cái thói hung tàn, đàn áp đi, chớ liên minh với ngoại bang gây chiến, giết hại lẫn nhau: đó là thứ thập ác. Giêrênia đã vác Thánh giá để cứu dân thoát khỏi thập ác, nhưng dân vẫn lao đầu vào thập ác: chúng đã đốt con chúng làm lễ tế thần Baal (Cr. 19, 5) và hùa nhau: “Tố cáo ông, báo thù ông” (Ger. 20, 10).

Thánh giá này, Giêrênia vác không nổi thì Đức Giêsu đã đến vác trọn vẹn. Người long trọng tiên báo cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Phêrô nghe kinh khủng quá, kéo Thầy ra nói nhỏ, sao Thầy dại thế? “Xin Thiên Chúa thương cứu Thầy khỏi sự khốn đó”.

Thành thực muốn cứu Thầy, lại bị Thầy sửa lưng thẳng mặt: “Satan, xéo đi cho khuất, ngươi cản lối Ta, tư tưởng của ngươi không phải của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 23).

Đúng thế, Phêrô đã bị tính ích kỷ loài người, tính vụ lợi muốn được cả thế gian của satan làm hoen ố tinh thần hy sinh vác thánh giá theo Thầy. Muốn thoát khỏi vác thánh giá thì lại lao đầu vòng tròng thập ác của satan, của sự xấu, của tiêu diệt: “Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống”. Vì chỉ có Thầy “bị người ta giết chết, nhưng ba ngày Thầy sẽ sống lại”, chỉ có “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” “là sự sống lại và là sự sống muôn đời”. Chỉ có “Thầy sẽ ngự đến trong ánh sáng vinh quang”.

Phêrô đã quên niềm tin chân chính mà ông vừa mạnh mẽ tuyên xưng. Con người chóng quên quá! Con người yếu đuối quá! Con người phũ phàng quá! Chúa ơi!

Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Người vác khổ giá hay sao? Giêrênia đã từ chối, nhưng đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, Phêrô đã từ chối và đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, nhiều lần con đã từ chối vác khổ giá, xin cho con biết trở lại vác khổ giá theo Chúa, để khổ giá của con trở thành thánh giá cứu con và nhiều người.

 

6.Sống đức tin

Như chúng ta đã biết: Với lời tuyên xưng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tấn phong lên ngôi vị giáo hoàng đầu tiên, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm nền tảng của Giáo Hội: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời. Sự gì con cầm buộc ở dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, còn sự gì con cởi mở ở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở.

Thế nhưng cũng chính vị giáo hoàng đầu tiên này sau đó ít phút, đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu tại Giêrusalem, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy. Nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc nói với Phêrô: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta, bởi vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.

Thái độ nghiêm khắc của Chúa Giêsu làm cho chúng ta ngạc nhiên, thế nhưng biết đâu lúc này Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta như vậy. Bởi vì chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, trên môi trên miệng nhưng chưa thực sự sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta chưa được tôi luyện và trưởng thành trong đau khổ, trong gian nan thử thách. Chúng ta vui vẻ mở rộng vòng tay đón nhận hạnh phúc và may mắn, nhưng lại vội vã chạy trốn trước những khổ đau và bất hạnh. Đối với chúng ta thập giá không còn là một dấu chỉ của ơn cứu độ, nhưng là dấu chỉ của một sự điên khùng và dại dột, một cái gì cần phải xa tránh. Càng tránh xa được bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Bởi vì tư tưởng của chúng ta chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.

Thực vậy, tư tưởng và lập trường của Chúa Giêsu thật rõ ràng và dứt khoát: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta. Chúa Giêsu cũng đã đưa ra hai điều kiện và hai kết quả sóng đôi với nhau: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm thấy. Dĩ nhiên, đây không phải chỉ là sự sống phần xác, chúng ta có bổn phận phải duy trì, phải phát triển nhưng không được lạm dụng bằng những vui thú quá trớn. Mà hơn thế nữa, còn là sự sống phần hồn của bản thân chúng ta và của những người chung quanh chúng ta. Để sự sống ấy được phát triển, chúng ta phải tin cậy và phó thác vào Chúa, nhất là chúng ta phải thực thi những điều Ngài truyền dạy: Từ bỏ mình và vác thập giá là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

Tuyên xưng đức tin là một chuyện, còn sống đức tin là một chuyện khác. Giữa hai việc làm ấy là cả một con đường dài, nhiều cam go và thử thách. Thế nhưng chúng ta đã thực sự sống đức tin của mình hay chúng ta chỉ mới tuyên xưng trên môi trên miệng để rồi cuối cùng chúng ta sẽ bị Chúa Giêsu quở trách như Phêrô ngày xưa: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta.

 

home Mục lục Lưu trữ