Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1355184

Nếu Ông Là Vua

Nếu ông là vua

Lm. Âu Quốc Thanh

Các thánh sử đều kể lại câu truyện tang thương của cuộc khổ nạn một cách hết sức vắn gọn, mặc dù trong truyền thống Do Thái tường thuật những vụ tử vì đạo rất tỉ mỉ (2Mac 7,3-19). Phúc âm theo thánh sử Luca kể lại cách sơ sài sự kiện một tử tội mang danh là Giêsu thành Nazareth đang hấp hối trên cây thập giá. Thánh Luca còn bỏ cả chi tiết cho ông Giêsu uống rượu pha mật đắng. (Mc 15,22; Mt 27,33). Tuy nhiên trong bài trích Phúc âm cho Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thánh Luca đã tỉ mỉ nói lên bốn phản ứng của những người hiện diện tại đồi Golgotha để chứng minh con người và căn tính siêu việt của Chúa Giêsu.

Thái độ thứ nhất là thái độ dửng dưng của những người qua đường. Là khách bàng quang, họ đến xem cho biết chuyện gì đang xảy ra. Thánh Luca phân biệt rõ những người dân và các vị lãnh đạo. Đám dân thường chỉ đứng quan sát sự việc cách thụ động. Họ không biết rõ căn tính và con người ông Giêsu. Chính vì thế mà họ được ơn thống hối ăn năn. (Lc 23,48)

Còn hàng lãnh đạo tôn giáo thời đó thì chủ động nhạo báng ông Giêsu. Họ không tin ông Giêsu là Vua dân Do thái, đấng được tuyển chọn để cứu dân Chúa khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự dữ. Họ chế nhạo: “Nếu ông là vua dân Do thái. ông hãy tự cứu mình đi.” Họ hiểu “Vua” theo nghĩa trần gian, một vị lãnh đạo chính trị sẽ giải thoát dân Chúa thoát ách thống trị của Đế quốc Rôma. Một tử tội đang hấp hối trên thập tự không thể giúp họ thực hiện ước mộng đó của họ.

Thái độ của người trộm dữ cũng giống như thái độ của đám lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Hắn buông lời hằn học và sỉ nhục: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Hắn biết mình đã rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh” và biết chẳng còn ai có thể cứu mình khỏi chết. Có thoát lời thóa mạ ai cũng chẳng thiệt thòi gì hơn. Đối với hắn, chết là hết.

Nhưng người trộm lành đã thực sự được ơn giải thoát khỏi sự ngu muội và sự không tin. Hắn nhận ra Đức Giêsu là người vô tội nhưng lại bị án tử hình như những kẻ phạm trọng tội như hắn. Hắn nhận ra rằng vị Vua này không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng là một lãnh đạo tinh thần, và nước của Ngài chính là thiên đàng vĩnh cửu. Chính vì được ơn giác ngộ và thống hối, hắn đã thốt lên lời đầy tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” (Bản dịch mới của nhóm Phiên Dịch VN, 1998, có lẽ chính xác hơn: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.

Chúng ta là những Kitô hữu có lẽ chúng ta không bao giờ dám nhạo báng Chúa Giêsu như tay trộm dữ và những vị lãnh đạo cứng lòng tin. Cùng lắm khi vì tính yếu đuối xác thịt để cho mình rơi vào tình trạng dửng dưng với Chúa Kitô và công việc của Giáo Hội, nhiệm thể của Ngài. Đôi khi chúng ta muốn Chúa Giêsu trở thành một vị lãnh đạo chính trị giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ phần xác và những bất công xã hội. Bằng chứng của lòng mong ước này là phong trào thần học giải phóng, là phong trào phụ nữ bình quyền... Dĩ nhiên khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu đã cứu chữa biết bao nhiêu tật nguyền và đả phá những hủ hóa của giới lãnh đạo. Nhưng Ngài đã không giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị Rôma và không làm phép để giải vòng vây cho chính Ngài. Lý do: vì Ngài không phải là Vua trần gian. Như Chúa Giêsu nói rõ với Philatô khi Ngài bị bắt: “Nước ta không thuộc về thế gian này.” (Ga 18,36) Nước của Ngài là Thiên đàng mai sau, chỉ có nơi đó mới không còn đau khổ phần hồn phần xác, không còn áp bức và bất công xã hội.

Chắc hẳn, chúng ta đều muốn được ơn giác ngộ và trở lại như người trộm lành. Chúng ta muốn tôn thờ Chúa Giêsu là Vua của vũ trụ và là vị Vua của từng tâm hồn mỗi người. Lời nguyện nhập lễ trong thánh lễ Chúa Kitô Vua: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.” 


Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu là Vua của vũ trụ. Nhưng là Vua theo nghĩa nào?

2. Ngài là Vua của cả vũ trụ. Nhưng thử hỏi: Ngài đã đích thực là Vua của chính bản thân bạn chưa? đã là Vua trong trái tim bạn chưa?

3. Miệng bạn tuyên xưng về Đức Giêsu thế này thế kia, nhưng hành động và cách cư xử của bạn đối với mọi người có tuyên xưng đúng như vậy không?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu là Vua, nhưng là vua theo nghĩa nào?

Trên trần gian này, có nhiều cách làm vua. Có những vị vua hay tổng thống cai trị đất nước với quyền lực trong tay, ngồi trên ngai vàng và ra lệnh, buộc các thần dân phải tuân phục. Có những vị vua không ngai, không lãnh thổ, nhưng làm chủ một lãnh vực kinh tế nào đó trên thế giới. Họ cũng được gọi là vua, như vua dầu lửa (Rockfeller), vua xe hơi (Ford), v.v…

Hôm nay, Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Nhưng chúng ta cần phải xác định xem Ngài là Vua theo nghĩa nào? Vì quả thật Ngài chưa bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng chưa bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.

2. Một phần ba nhân loại tôn Ngài là Vua của tâm hồn mình

Hiện nay trên thế giới, 34,86% nhân loại – tức khoảng 2 tỷ trên 6 tỷ người – là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một cảnh tượng cảm động chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chấp nhận một cái chết thật đau khổ và nhục nhã, giữa sự chế giễu của mọi người, vì yêu thương con người. Và câu cuối cùng của bài Tin Mừng là «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» cho thấy Ngài có khả năng ban hạnh phúc vĩnh cửu cho con người. Ngài có thể ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, cho dẫu chúng ta tội lỗi đến đâu, miễn là chúng ta thành tâm sám hối và liên kết chặt chẽ với Ngài.

Tin và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tự nguyện đáp lại bằng tình yêu thương của họ. Thế là cuộc đời họ trở nên hạnh phúc và mang một ý nghĩa cao đẹp vì yêu và biết mình được yêu. Tương tự như một cô gái yếu đuối hèn mọn được một chàng trai cao sang để ý yêu thương, yêu thương đến độ sẵn sàng hy sinh tất cả cho mình, kể cả mạng sống. Thế là cô thấy đời mình hạnh phúc và có ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Để đáp lại tình yêu cao cả ấy, cô tự nguyện dâng hiến đời mình cho chàng, làm tất cả những gì chàng muốn để chàng được hạnh phúc. Hạnh phúc lớn nhất của nàng là được biết chàng hạnh phúc, vì chính chàng cũng đối xử như thế với nàng. Chàng trở thành vua lòng nàng, và nàng trở thành hoàng hậu của lòng chàng.

Biết bao Kitô hữu trên đời đã có một tình yêu song phương như thế đối với Đức Giêsu. Đối với họ, Đức Giêsu chính là vị Vua duy nhất của lòng họ, chiếm trọn vẹn trái tim họ. Họ đã hiến trọn cuộc đời mình để phụng sự Ngài nơi những hiện thân cụ thể của Ngài là những người chung quanh họ, những người họ gặp trong cuộc đời, nhất là những người nghèo khổ nhất, bị bỏ rơi hoặc chịu áp bức bất công nhất trên đời.

Với họ, tình yêu đối với Đức Giêsu được biến thành tình yêu đối với tha nhân. Vì Đức Giêsu đã nhiều lần tự đồng hóa Ngài với những người nhỏ bé nhất, đau khổ nhất trên đời (xem Mt 25,40.45; 10,40; 18,5; Lc 10,16). Hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Đối với họ, sự phân biệt giữa yêu Đức Giêsu và yêu tha nhân chỉ có trong lý thuyết chứ không có trong thực tế của đời sống. Nghĩa là yêu Đức Giêsu thì tất nhiên phải yêu tha nhân, và yêu tha nhân chính là yêu Đức Giêsu. Họ đã yêu Ngài, và phụng sự Ngài trong tha nhân đến mức sẵn sàng chịu tất cả mọi đau khổ có thể xảy đến, thậm chí hy sinh mạng sống mình (điển hình: gương của 2 linh mục Ba Lan Maximilianô Kôlbê và Jerzy Pôpiêlúskô).

3. Đức Giêsu đã là Vua của bản thân ta chưa?

Nếu phải tranh luận về thần học xem Đức Giêsu có phải là Vua của nhân loại, của vũ trụ không, thì chắc chắn biết bao người trong chúng ta sẽ tỏ ra hăng say nhiệt tình như thể sẵn sàng sống chết để bảo vệ luận điểm ấy. Nhưng nếu phải tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, thì chắc chắn rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời «CHƯA!» Thực tế thật đau lòng: Ngài là Vua của cả vũ trụ, nhưng đời sống và cách hành xử của ta lại chứng tỏ Ngài chưa phải là Vua của chính bản thân ta! Chân lý kia chỉ được ta công nhận trên lý thuyết, chứ không trở thành thực tế trong đời sống. Trong thực tế, vua của tâm hồn ta, thường xuyên ảnh hưởng mạnh mẽ đến những động lực của ta không phải là Ngài, mà là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta!

Nói một cách cụ thể hơn, nhiều khi miệng chúng ta tuyên xưng rất mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là Vua của cả vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn nhân loại, đồng thời kết án và tẩy chay những ai tuyên xưng bằng miệng khác với chúng ta, dẫu chỉ là một chút… Nhưng hành động và cách cư xử của chúng ta đối với mọi người lại tuyên xưng rất rõ ràng rằng tiền hay quyền bính mới là Vua của vũ trụ, mới là đấng cứu độ duy nhất của nhân loại! Thế mà chẳng ai kết án ta cả?! Liệu tuyên xưng kiểu ấy có phù hợp với tinh thần Kitô giáo chăng? Dẫu sao, ta có thể chắc chắn một điều là: nó không phù hợp với tinh thần của Đức Giêsu.

Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng hùng hồn kia ấy có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói xuông!

Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài sẽ không thèm hỏi ta đã chấp nhận và tuyên xưng những giáo điều nào, những luận điểm nào, hay đã tuyên xưng Ngài là Vua của cả vũ trụ chưa… Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?

Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là «người khôn ngoan xây nhà trên đá» (Mt 7,24). Nhân dịp này, ta thử xét lại xem cách sống đạo hiện tại của chúng ta là «xây nhà trên đá» hay «trên cát»?

Cầu nguyện

Lạy Cha, từ xưa đến nay, con luôn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của nhân loại, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Nhưng hành động của con, cách cư xử và đời sống của con dường như muốn nói rằng không phải như thế. Xin Cha hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa, để con đủ can đảm sống đúng những điều con tuyên xưng. Con xin bắt đầu việc tuyên xưng Đức Giêsu là Vua từ ngay trong bản thân con, qua chính cách sống và hành động của con, chứ không phải từ bên ngoài và lời nói xuông. Amen.

home Mục lục Lưu trữ