Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 130
Tổng truy cập: 1350263
NGÀI CÓ BẢO GÌ, HÃY LÀM THEO!
“NGÀI CÓ BẢO GÌ, HÃY LÀM THEO!”
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sở dĩ gọi Cana trong miền Galilê là để phân biệt với Cana miền Coelo-Syria. Đây là một làng rất gần Nadaret. Thánh Hiêrônimô, người từng ở Palestine bảo rằng, từ Nadaret ông có thể nhìn thấy Cana. Tại đó đang có một đám cưới, Đức Maria được mời đến dự và giữ một vai trò đặc biệt, chắc liên quan đến việc tổ chức nên bà đã tỏ ra lo lắng khi thấy thiếu rượu. Bà cũng có đủ quyền để ra lệnh cho đầy tớ làm bất cứ điều gì Chúa bảo.
Tại xứ Palestine, lễ cưới là một cơ hội thật sự quan trọng. Theo luật Do thái, lễ cưới của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Tại Palestine vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: “Không rượu thì không vui”. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu thật quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Vì thế Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự việc này. Mà Chúa Giêsu đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc mạc đơn sơ.
Câu chuyện đã được kể lại cách sống động nên rõ ràng phải là do người đã chứng kiến tận mắt ghi lại, nhưng không phải là ghi lại ngay sau khi xảy ra mà là bảy mươi năm sau, và cũng ghi lại tác dụng của phép lạ ấy: “Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana và bày tỏ vinh quang của Người.” Chúa làm phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cố gắng tìm biết các nguyên tắc bày tỏ tỏ vinh quang này.
- Bước đường cùng khiến người ta quay về với Chúa, cung cấp dịp tiện cho Người hành động, ân huệ của Chúa được ban cho ai thành khẩn kêu cầu Ngài. Dầu có người chê cầu nguyện là mê tín, hay bình thường thì chẳng bao giờ cầu nguyện, nhưng một khi đã lâm vào cảnh khốn cùng, chẳng ai không ngước mắt lên trời mà kêu cầu.
- Đức Maria là người thân trong gia đình này, được mới tới dự tiệc cưới, khi thấy rượu đã hết, biết ngay chủ nhà sẽ rất bối rối, sẽ bị bẽ mặt, và các thực khách sẽ mất vui. Không kể đến địa vị làm mẹ, đến với Đức Giêsu mà cầu khẩn: “Họ hết rượu rồi.” Làm mẹ, mà hạ mình cầu cứu con, không phải dễ lắm đâu. Đàng khác chưa biết ý Chúa ra sao, đường đột đưa ra một lời cầu như vậy mà không thăm dò trước có khi rước lấy tai họa. Thế nhưng đến nước này, nếu không kêu cầu Chúa thì còn biết trông cậy vào ai nữa!
Lời cầu nguyện của Đức Maria bị thôi thúc vì hoàn cảnh mà Mẹ đảm trách lấy, là kiểu mẫu cho những lời cầu bầu của chúng ta.
Vì chúng ta thấy lời cầu của Đức Maria là lời cầu “Ý Cha thực hiện” vì Ngài chỉ nói: “Họ hết rượu rồi” chứ không thêm gì vào nữa! Một lời cầu nguyện tốt nhất là “trình lên Chúa các nhu cầu của mình” rồi để Ngài làm theo ý Ngài. Đức Maria đã làm như thế; còn phần chúng ta, ngoài việc trình nhu cầu lên Chúa, thường hay bày thêm cách này cách kia, đôi khi còn đòi Chúa phải làm theo ý của mình. Đức Maria không ép Chúa, Ngài để Chúa tự do địnhh liệu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có người đã làm theo gương Đức Maria, khi Ladarô đau nặng, hai chị em Matta và Maria sai người đi thưa Chúa “người Thày yêu đau nặng.”
- Lời cầu nguyện của Đức Maria là lời cầu nguyện hạ mình: đây là lời cầu xin của bà mẹ đối với con. Nếu còn giữ thể diện thì không dễ gì một bà mẹ sẵn lòng hạ mình kêu cầu con; đã thế lại còn nhận được một lời đáp ứng dường như cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thứa bà, chuyện đó can gì đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Thế nhưng, Đức Maria đã từ bỏ mình trước rồi, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp chứ không nghĩ đến thể diện cá nhân. Lời câu xin không kể đến thể diện mình quả là phép mầu để Chúa được vinh hiển. Chẳng những tại đây, do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua Kinh Thánh đều thấy Chúa làm phép lạ là do có người kêu cầu.
- Này, có một người phong đến gần Ngài thưa: “Lạy Chúa, nếu Chúa ưng, xin cho con được lành mạnh. Chúa giơ tay sờ đến anh phá: Ta muốn, anh được lành sạch. Tức thì người phong được sạch.”
- Khi Chúa vào Caphanaum, có một sĩ quan đến thưa Ngài: “Con gái tôi đau gần chết, xin Thày đến đặt tay trên nó, để được sống.” Chúa bèn đứng dậy đi theo ông.”
- Phêrô hòng chìm xuống nước la lên: “Thầy ơi cứu con với, tức thì Chúa giơ tay ra cứu ông.”
- Hai người mù thưa: “Lạy Chúa, xin cho mắt chúng tôi được sáng. Chúa động lòng thương, liền sờ đến mắt và hai người thấy được”
Có thể trưng nhiều hơn, nhưng cũng đủ để thấy Chúa thường hay mượn cớ người ta cầu nguyện để ban ơn, để tỏ bày vinh hiển của Ngài. Nguyện lời cầu của chúng ta cũng giống thế.
Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: “Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: “Cứ xin thì được.” Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Trình bày nhu cầu xong, phải tin vào lời hứa của Chúa mà chắc chắn mình được nhận lời. Thiếu đức tin thì không bao giờ thấy vinh hiển của Chúa. Các vĩ nhân trong lịch sử thánh đều là những anh hùng đức tin: bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi, bởi đức tin có thể qua sông Giođan, bởi đức tin có thể đánh lui toán quân của ngoại bang, bởi đức tin có thể khiến thành Giêricô sụp đổ, khiến người mù được sáng, què được đi, kẻ phong được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Có việc nào không bởi đức tin mà tỏ bày vinh quang của Chúa đâu. Thế nên, Chúa từng phán với Matta rằng: “Ta đã chẳng nói với con rằng nếu con tin con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa.” Giả như lúc này Đức Maria không dặn bảo những người giúp việc sẵn sàng làm theo lệnh Chúa thì Chúa cũng chẳng bảo họ làm gì nữa, mà dầu có bảo họ cũng chẳng nghe theo. Thế thì đã không có phép lạ nước hóa ra rượu… nhưng vì đức tin của Đức Maria quá lớn, nên phép lạ đã xảy ra.
Sở dĩ chúng ta không được thấy vinh hiển Chúa trong đời sống, không phải vì chúng ta không cầu xin, nhưng vì cầu xin trong sự không tin. Hãy bắt chước Đức Maria, nghĩa là phải lấy đức tin mà nhận điều mình cầu xin dầu hoàn cảnh là thập phần khó khăn, cảm giác thập phần lạt lẽo, nhưng phải làm xong điều gì phải làm như Đức Maria đã từng làm thì Chúa sẽ phải giữ lời Ngài đã hứa mà ban ơn cho ta để tỏ vinh quang Ngài.
Với lòng đầy tin tưởng, Đức Maria nói gì: “Người bảo gì cứ làm theo đó.” Phải ghi chặt vào lòng câu nói đó. Vì đó là việc buộc phải làm về phương diện loài người. Nếu ta không chịu vâng phục mà làm theo, vinh quang của Chúa có thể bị cản trở vì bất tuân của loài người. Các bạn có tin Thiên Chúa rẽ đôi nước Biển Đỏ không? Tin chứ, nhưng nếu bất tuân mà không giơ cây gậy lên thì nước Hằng Hải đâu có phân đôi tả hữu; các bạn có tin nước Giođan nhưng chảy không? Tin chứ, nhưng nếu vì bất tuân mà không đặt chân vào dòng sông thì nước không dồn lại thành đống. Bạn có tin Chúa có thể làm sụp đổ tường thành Giêricô không? Tin chứ, nhưng nếu không nghe lời Chúa mà đi vòng quanh thành đủ bảy ngày, thì tường thành không tự nhiên đổ xuống đâu. Người teo tay phải vâng lời Chúa mà giơ tay ra, mới được lành; người phong phải vâng lời Chúa đem thân đến cho thấy tư tế khám nghiệm mới được sạch phong; người mù phải vâng lời Chúa đi xuống ao Silôê mà rửa mới xem thấy được. Trong Kinh Thánh có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng sự vâng phục là điều kiện buộc phải có để Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài.
Trong tiệc cưới, các gia nhân đang bận rộn, vậy mà Chúa bảo họ phải đổ đầy nước vào sáu cái chum đá, thế mà họ vâng lệnh “đổ đầy tới miệng”. Rồi tiếp theo lệnh thứ hai: “Bây giờ hãy múc đưa cho người quản tiệc. Họ liền đem cho ông.” Chữ ‘liền’ ở đây rất ý nghĩa, đây chính là thái độ tỏ rõ vinh quang Chúa. Có gì buộc mà họ phải vâng lời Ngài, Ngài đâu có phải là chủ của họ, họ đang bận rộn, gặp lúc thiếu rượu lại còn quýnh lên; lại nữa lời bảo của Chúa chẳng hợp lẽ chút nào: đổ nước vào chum đá đã là phiền hà, lại còn múc đem cho người quản tiệc để làm gì? Bảo làm thế, để làm gì trong tình thế khó khăn này? Thế nhưng gia nhân đã vâng theo không hề phản kháng càu nhàu, Chúa bảo làm gì họ làm thế. Họ đem lại cho Chúa cơ hội hoàn toàn tự do để bày tỏ quyền năng là biến nước thành rượu. Nếu người ta không chịu vâng phục mà đổ nước vào rồi lại múc nước ra, hay tuy là vâng theo, nhưng không trọn vẹn, chỉ để lưng chừng, thì thế nào cũng giảm bớt hay làm bế tắc vinh hiển của Chúa. Thế mới biết vâng lời không cần lý do mới khó làm sao! Nhưng vâng phục không cần lý do quả thực là điều kiện duy nhất của những ai giúp việc Chúa!
Đến với Chúa, chúng ta chỉ có sự cầu xin thì không đủ, cần phải có đức tin nữa; chỉ có đức tin cũng chưa đủ, còn phải có sự vâng phục nữa. Chắc có nhiều người nói mình đã có đức tin rồi, nhưng thử hỏi thật lòng mình đã có vâng phục hoàn toàn chưa. Chúa bảo bạn làm điều gì cứ làm ngay điều đó, đừng nhìn xen hoàn cảnh, đừng đòi lý do, “cứ làm theo đi” một người đi theo Chúa, quả có nhiều bài phải học, mà bài khó học hơn hết là vâng phục, có thể nói rằng hễ ai tiến bộ trong sự vâng phục là có tiến bộ trong đời thuộc linh. Vâng phục là đem chủ quyền của mình mà nhường cho Chúa, để Chúa cai trị, khi nào người môn đệ hoàn toàn vâng phục Chúa, Chúa mới hoàn toàn làm chủ người môn đệ. Phải biết chắc rằng bạn có vâng phục Chúa, Chúa mới vâng phục bạn (nghe lời bạn cầu xin).
47.Nước hằng sống
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Hai năm trước đây vào tháng giêng 2011 nhiều nơi trong thành phố Brisbane chìm dưới nước. Suốt mấy tuần lễ sau đó hàng ngày đều có thông báo và tiên đoán những thành phố nào kế tiếp sẽ là nạn nhân của giòng thác lũ. Những tiên đoán trên đã xảy ra đúng như những gì thông báo. Năm nay trái lại, khí hậu khô, oi bức. Không phải khô hạn chỉ gây nóng bức, khó chịu mà còn gây cháy rừng toàn lục địa. Người người, nhà nhà cầu trời đổ mưa; kẻ không tin mong trời xả nước giập tắt hoả hoạn cháy rừng. Người người vẫn còn mong đợi.
Nước đóng một vai trò quan trọng trong Kinh Thánh. Thời Cựu Ước nước được nhắc đến giải thoát cơn khát sa mạc của đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa. Thời Tân Ước nước dùng để thanh tẩy mang lại ơn thánh hoá. Đức Kitô dùng hình ảnh nước thường diễn giải nước hằng sống cho người phụ nữ thành Samarita khi Ngài nói cùng cô:
Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14)
Tuần trước chúng ta nghe về phép thanh tẩy của Gioan và ông cũng là người ban phép thanh tẩy cho Đức Kitô trước khi Ngài bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai. Tuần này chúng ta nghe về phép lạ Đức Kitô biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana tại Galilê. Việc biến nước thành rượu thượng hảo hạng đã làm kinh ngạc cả thực khách lẫn người quản tiệc. Ông diễn tả điều ngạc nhiên như sau:
Ai ai cũng thết ruợu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ (Ga 2,10)
Cuối bài Kinh Thánh kết luận:
Đức Kitô đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (Ga 2,12)
Các môn đệ tin vào Đức Kitô trước khi Ngài làm dấu lạ. Nếu không tin vào Ngài các ông đã không bỏ mọi sự để đi theo. Chính việc các ông bỏ mọi sự để đi theo cho thấy niềm tin của các ông. Điều Kinh Thánh diễn tả trong trình thuật này cho biết một điều khác hơn là đức tin của các ông. Các môn đệ tin vào Đức Kitô nhưng các ông không biết Lời Ngài có sức sáng tạo. Các ông biết sau khi chứng kiến Đức Kitô làm dấu lạ. Các ông nhìn thấy các người giúp việc múc nước đổ vào chum. Các ông nghe Ngài nói với các người giúp việc lấy nước trong chum đưa cho người quản tiệc và các ông nghe người quản tiệc khen rượu ngon. Có lẽ chính các ông cũng được nếm thử thứ rượu hảo hạng đó. Các ông nghe, thấy và tin Lời Thầy có sức mạnh. Lời Thầy có sức thánh hoá. Lời Thầy có sức biến đổi nước thành rượu. Như thế dấu lạ không ban đức tin cho người Kitô hữu nhưng thêm sức mạnh cho đức tin, làm cho người Kitô hữu hiểu thêm, hiểu sâu hơn về niềm tin.
Niềm tin của các tông đồ có trước sau đó mới đến dấu lạ. Không phải thấy dấu lạ rồi mới có đức tin mà chính là ngược lại, các tông đồ có đức tin rồi mới thấy dấu lạ.
Tin theo Đức Kitô luôn có những ngạc nhiên tốt đẹp đến trong đời. Điều ngạc nhiên tốt đẹp nhất, trọng đại nhất đến sau cùng. Đó chính là nước hằng sống mà Ngài hứa ban cho chị phụ nữ thành Samarita. Đây cũng là niềm hy vọng của mỗi người trong chúng ta những kẻ tin theo Chúa.
Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14).
48.Ngày thứ Ba
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Ngày thứ ba hay số ba đóng một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Đức Kitô.
Ngày thứ ba không nhất thiết phải là sau ngày thứ hai trong tuần. Ngày thứ ba có một nghĩa khác là sau ba ngày. Sau ba ngày có thể là bất cứ ngày nào trong tuần kể từ khi sự việc xảy ra. Có cách diễn tả khác đó là ba ngày sau.
Đức Kitô làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana tại Galilê vào ngày Thứ Ba. Quan trọng hơn nữa Ngài sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Cũng là con số ba. Quan trọng nhất là tín điều Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Đổi mới
Ngày thứ ba trong tiệc cưới Cana có đổi mới. Nước lã biến thành rượu ngon.
Bầu cũ, bình da cũ tượng trưng cho một dân tộc, cá nhân, mà tinh thần bạc nhược, hèn nhát, không còn minh mẫn, sáng suốt nhận biết chân giả, đúng sai. Để phân biệt hư thực đúng sai, điều tốt lành, trọn hảo dân tộc đó, cá nhân đó, cần một tinh thần mới, sức sống mới. Đó là loại rượu mới.
Rượu mới tượng trưng cho trật tự mới. Một trật tự có nguồn gốc phát xuất từ tình yêu. Mọi lời nói, cử chỉ, việc làm do tình yêu chân thành thúc đẩy, hướng dẫn, đều bắt nguồn từ trật tự mới. Đó là đạo lí mới, cách sống mới, được Lời Chúa hướng dẫn, chỉ dậy cách sống, cách thờ phượng mới.
Trật tự mới rút ra từ trật tự cũ đó là nước lã. Châm ngôn ‘lạt như nước ốc’ diễn tả một tấm lòng thiếu chân thành, tự nguyện, một tình cảm nhạt nhẽo, không ân cần, săn đón, chăm sóc.
Rượu mới, đạo lí mới, cách sống mới Đức Kitô rao giảng tốt hơn đạo lí cũ, cách xử thế cũ. Cách xử thế cũ nặng hình thức, trình diễn bên ngoài được thay thế bằng cách sống mới đầy yêu thương.
Cựu Ước cũng nhắc đến tầm quan trọng của con số ba. Sách Xuất Hành chương 19 nhắc lại biến cố dân Israel sau ba tháng bỏ đất cũ Ai Cập đến miền đất mới Sinai. Tại nơi đây Môsê nhận lệnh từ Giavê Thiên Chúa, sau ba ngày Ngài thiết lập Giao Ước, Môsê nhận Mười Điều răn.
Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Giođan, ba ngày sau Ngài nhận hai môn đệ là Philiphê và Nathanaen.
Ngày thứ ba trong cuộc Phục Sinh của Đức Kitô mang đến cho nhân loại một chiến thắng khải hoàn. Qua đó những ai tin sẽ nhận ơn cứu độ, thoát ách xiềng xích của ma quỉ do tội lỗi gây nên và trở nên con Thiên Chúa, dân tuyển chọn. Đây là một đổi mới toàn diện con người, bắt đầu từ trong tâm, tràn đầy yêu thương, cảm thông và tha thứ. Thành quả sau ba ngày mai táng trong mồ. Ngài sống lại ban cho nhân loại sự sống mới.
Tiệc cưới
Kinh thánh dùng hình ảnh ngày vui tiệc cưới nói về niềm vui nước trời cho những ai đáp lại lời Đức Kitô mời gọi. Người tham dự tiệc cưới cần có sốt sắng tham dự và tinh thần sẵn sàng. Dụ ngôn mười trinh nữ dự tiệc cưới cho thấy chuẩn bị và sẵn sàng là thiết yếu. Thiếu chuẩn bị sẽ thua thiệt vì bị từ chối nhập tiệc (Mt 25).
Dự tiệc cưới nước trời cần mặc áo cưới. Trước khi dự tiệc cưới mặc áo nào cũng được mời. Sau khi vào tiệc, cần phải mặc áo cưới.
Đây là điều bắt buộc.
Bấy giờ nhà vua tiến vào phòng quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy. Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới. Người ấy câm miệng không nói được gì. Bấy giờ nhà vua bảo gia nhân trói tay chân nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng. (Mt 22, 11)
Bài học cần lưu ý cho những ai ăn bận, diêm dúa, loè loẹt, thiếu kín đáo và thiếu chuẩn bị khi tham dự thánh lễ. Họ trả lời thế nào về tinh thần và thái độ sẵn sàng tham dự tiệc cưới. Vẫn biết quyền phán xét dành riêng cho Chúa nhưng nhìn y phục khó tránh khỏi nhận xét về tư cách.
Tinh thần
Tinh thần đóng một vai trò quan trọng liên quan đến y phục. Đây không phải là cơ hội trưng diện, khoe khoang. Cần ăn mặc lịch sự thích hợp cho việc tham dự thánh lễ. Như thế nào là lịch sự, thích hợp?
Một tấm lòng yêu mến thiết tha, biết ăn mặc thế nào cho xứng khi đón nhận Chúa vào lòng. Cần chuẩn bị kĩ trong ngoài trước khi đến gặp Chúa. Đến với Chúa trong tâm tình khiêm nhường, lòng thiết tha và tinh thần vui tươi. Đến với Chúa với tâm tình đơn hèn vui thích, không cảm thấy dự lễ là điều bắt buộc, chu toàn lề luật. Đến do lòng mong ước, tâm tình yêu mến, sẵn sàng tham dự các nghi thức một cách chân thành, vui vẻ và hoà đồng với những anh chị em khác.
Quí bạn dự lễ đứng ngoài thánh đường cần xét lại cách thờ phượng riêng mình. Lí do giải thích cho việc đứng ngoài có nhiều. Chính đáng hay không mình bạn biết. Thực tế việc làm gây nên một số điều không hay. Vì nhiều lí do.
- Dễ bị chia trí khi dự lễ.
- Khó tập trung khi nghe các bài đọc và bài giảng.
- Tâm tình cầu nguyện bị chi phối bởi hoàn cảnh.
- Đôi khi vừa dự lễ vừa chuyện vãn.
- Là gương mù cho người khác bắt chước.
Bạn nghĩ thế nào khi mình là duyên cớ cho người khác vấp phạm.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam