Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1356324

NGOẠI TRỪ QUÊ HƯƠNG MÌNH

NGOẠI TRỪ QUÊ HƯƠNG MÌNH

 

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Chúa Giêsu rảo khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Và khi có dịp, Ngài ghé lại Nadaret, quê hương của Ngài để rao giảng cho đồng hương của Ngài.

Đến ngày sabat, Ngài vào Hội đường và giảng dạy. Theo tục lệ Do Thái, người ta thường mời những người có uy tín hay giỏi về Kinh Thánh giảng dạy. Nhiều người nghe đều thán phục và ngạc nhiên vì lời giảng của Ngài, vì “Ngài giảng như Đấng có uy quyền”. Họ ngạc nhiên vì chưa từng có ai giảng súc tích và lưu loát như thế. Nhưng sau đó họ lại đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta là ai? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em của ông là các ông Giacôbê…, và thánh Maccô kết luận:“họ vấp ngã vì Ngài”

Các thánh sử khác không đề cập đến bà Maria, nhưng thánh Maccô lại nhấn mạnh đến điều này, ngụ ý cho thấy dân Nadaret muốn khinh dễ và nhục mạ Ngài khi nói rằng Ngài là con bà Maria. Họ bươi móc nguồn gốc của Ngài. Nếu chúng ta không hiểu tập tục Do Thái, chúng ta không thể hiểu tại sao họ không nói là con ông Giuse mà lại nói là con bà Maria.

Theo tục lệ Do Thái, khi hai người đã được đính hôn với nhau hợp pháp thì có quyền thân mật với nhau như vợ chồng, nếu có con trước thì đến ngày cưới người ta vẫn tổ chức đám cưới rình rang như mọi người. Nhưng điều này rất khó được chấp nhận. Những gia đình đạo đức không ai cho phép như thế.

Maria, khi về với Giuse đã mang thai hơn ba tháng. Họ nhắc đến con bà Maria là để nói rằng Ngài không danh giá gì.

Tại sao từ thán phục họ biến sang khinh miệt?

Điều này dễ hiểu thôi. Trong xã hội nào cũng có những hạng người ganh ghét, không chấp nhận người ta hơn mình. Bệnh ganh ghét này là một bệnh khó chữa. Trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, ngay cả trong một gia đình cũng thường xảy ra những trường hợp ganh tị như thế.

Cơn bệnh này không bao giờ lành khi người bị ganh tị không bị hạ bệ. Cơn bệnh này có thể kéo dài hàng chục năm…

Nguồn gốc là kiêu căng. Và người ganh tị lại là những người kém tài mà lại muốn vượt trội và muốn được ngợi khen ca tụng.

Chúa Giêsu là nạn nhân của căn bênh trầm kha này và hiệu quả là Ngài bị như tê liệt, không thể làm phép lạ tại quê hương mình, trừ một vài người được chữa lành. Thượng Tế và kinh sư Do Thái đã mang căn bệnh này và họ đã giết Ngài.

Ngài đòi điều kiện tiên quyết để làm phép lạ, cứu giúp những người đang gặp cảnh khốn cùng là lòng tin. Nhiều lần, các thánh sử đã ghi lại câu nói: “Lòng tin của con đã cứu lấy con”. “Con tin thế nào thì được thế ấy”.

Vì kiêu căng và tự ái, không dám nhìn sự thật của chính mình, dân làng Nadaret đã đánh mất cơ hội hưởng nhờ những hồng ân Chúa ban. Thái độ từ chối này làm cho Chúa Giêsu đau lòng: Ngài ngạc nhiên vì họ không tin.

Đứng trước Lời Chúa, dù dưới hình thức nào, dù qua một người nào, Chúa đòi hỏi chúng ta một thái độ chấp nhận thành tâm. Nếu Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta hôm nay như giữa dân Nadaret, chắc Ngài cũng phải ngạc nhiên vì thái độ của nhiều người trong chúng ta, vì tuy không hẳn là từ chối, chúng ta cũng nghe lơ là, cho xong việc. Ra khỏi nhà thờ là quên hết những gì đã nghe. Vì thế mà Lời Chúa không đâm rễ sâu vào tâm trí chúng ta.

Chúng ta thích nghe những gì khác hơn là Lời Chúa. Cũng nên nhớ rằng, Lời Chúa là chính Chúa được trao ban cho chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta không đón nhận, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được bình an, vì chỉ có Chúa mới là sự bình an cho chúng ta.

Thế giới hôm nay đã từ chối Chúa, xem Ngài như không cần thiết. Hậu quả là chiến tranh, tội ác, khủng bố, bạo lực bao trùm cuộc sống con người hôm nay. Nền văn minh sự chết tràn ngập thế giới, và nhiều người đang oi ngợp không lối thoát.

Nhiều tâm hồn thiện chí đã kêu gào: “hãy chữa lành thế giới”. Nhưng phương thuốc nào sẽ hữu hiệu? Chỉ có một danh duy nhất dưới gầm trời này có thể cứu vớt được thế giới: Giêsu Nadaret. Chỉ có Ngài mà thôi! Tất cả những nỗ lực của con người chỉ là bọt bèo, mong manh.

Chúng ta vững tin vào Ngài. Dù không cứu được thế giới, chúng ta cũng có thể đem lại bình an cho những người quanh ta đang tìm ánh sáng. Tin Chúa, chúng ta không tin vào một lý thuyết mà tin vào một con người, một Thiên Chúa làm người. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Dân Nadaret đã chối từ vì họ mù quáng, còn chúng ta? Chúng ta có sáng suốt hơn họ không?

Đức tin là một hồng ân, chúng ta có quyền lãnh nhận nhưng cũng có quyền từ chối. Thiên Chúa không áp đặt chúng ta, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có quyền chọn Ngài hay từ chối Ngài.

Hãy mở cửa cho Chúa. Ngài luôn mời gọi. Ngài mong ước chúng ta nghe tiếng Ngài để được sống. Abraham đã nghe tiếng Chúa gọi ông ra đi. Ông không biết ra đi sẽ đem lại cho ông điều gì, nhưng ông tin rằng Đấng kêu gọi ông vẫn lớn hơn ông. Ông vững tin và ra đi, ra đi trong vô định của Thiên Chúa. Ông trao trọn cuộc sống của ông cho Đấng đã gọi ông. Tin là như thế, là nghe theo tiếng gọi của Đấng mà chúng ta nhìn nhận là Đấng nắm quyền sinh tử trên chúng ta, trao trọn cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Dân Nadaret đã biết Abraham là tổ phụ của họ, và đã biết rõ cuộc sống của ông như thế nào, nhưng họ không có can đảm để chấp nhận tiếng gọi của Thiên Chúa qua con người của Giêsu Nadaret.

Tin cũng là tìm Chúa không thôi cho đến khi tìm được, và xác tín rằng chúng ta sẽ tìm được. Chúng ta không nắm Chúa trong bàn tay. Ngài luôn vượt xa, thật xa, những gì chúng ta biết hay hiểu về Ngài. Chúa vẫn vượt xa tầm nhìn của chúng ta. Hãy tìm thì sẽ gặp.

Tin cũng là trở nên như trẻ nhỏ, nhìn mọi sự với cặp mắt ngây thơ như trẻ nhỏ, hoàn toàn tín thác. Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta tin như thế, tức là vô điều kiện, vì Ngài vẫn ở trên chúng ta, và nhờ Ngài mà chúng ta được sống.

Tin là xác tín rằng Chúa vẫn ở với tôi trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống của cuộc sống.

Dân Nadaret không thể nghĩ rằng Thiên Chúa có thể sử dụng một con người như ông Giêsu, một anh thợ mộc nghèo, để mang đến cho họ những hồng ân cao quí. Họ tưởng rằng Thiên Chúa quá cao cả không thể chú ý đến một con người có lý lịch không mấy tốt đẹp như ông Giêsu, con bà Maria. Họ quên rằng, trong lịch sử của họ, những người Chúa chọn để làm những công việc lớn lao chỉ là những người vô danh, rất đơn thường như Đavít, một tên chăn chiên, tiên tri Amốt là một người tỉa cây vả…

Họ mù quáng vì ganh tị. Họ đã đánh mất cơ hội đón nhận nhiều hồng ân. Họ không thể ngờ rằng, ông Giêsu đó chính là hồng ân tuyệt hảo Chúa dành cho họ. Thay vì hãnh diện vì người đồng hương của mình, họ lại từ chối Ngài.

Chúng ta có nghĩ rằng, mỗi người chúng ta có thể được sử dụng để đem niềm vui và ơn cứu độ cho người khác không? Hãy để cho Chúa có quyền trên chúng ta. Hãy khiêm tốn lãnh nhận những gì Chúa trao ban qua những người hay hình thức Chúa muốn, đừng đòi buộc Thiên Chúa theo ý chúng ta.

Nơi bàn thờ này, chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu Nadaret, cũng là Chúa Giêsu mà ngày xưa dân Nadaret đã từ chối không đón nhận. Chúng ta hãy nhìn Ngài với tất cả niềm tin và lòng biết ơn vì Ngài đã thân hành đến với chúng ta và tự ban mình cho chúng ta. Còn gì êm đềm hơn là thấy Thiên Chúa của chúng ta trở thành bánh nuôi sống chúng ta? Ngài chính là kho tàng tình yêu từ trời ban xuống cho chúng ta. Mặc cho ai từ chối, chúng ta vẫn tin.

 

5.Đức Kitô bị chối từ

Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.

Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.

Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.

Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.

Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.

Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.

Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.

Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.

Câu hỏi ngày hôm nay đó là chúng ta hãy tra vấn lương tâm, hãy tìm hiểu cách sống của bàn thân, để xem chúng ta đã thực sự đón nhận hay là đã từ chối Đức Kitô.

 

6.Chúa Nhật 14 Thường Niên

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

THÓI KIÊU NGẠO VÀ ĐỊNH KIẾN ĐÃ CẢN TRỞ ƠN CỨU ĐỘ

Tin mừng Mc 6: 1-6: Nhưng cũng như Chúa Giêsu, dù có bị thua thiệt hay đau đớn đến mức nào, ta vẫn một lòng trung kiên bền chí trong đức tin, trong lý tưởng tôn giáo mà mình đã chọn lựa...

Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ vụ Thiên Sai của mình, vì thế, khi tiếp xúc với dân chúng, Đức Giêsu đã can đảm, trung thành với sứ vụ. Luôn tỏ ra là một Vị Thiên Chúa sẵn sàng khích lệ, đồng hành, cảm thông và xót thương con người. Dạy dỗ và làm nhiều phép lạ nhằm loan báo Mầu Nhiệm Cứu Chuộc cho dân để họ sám hối, tin theo và được cứu chuộc.

Tuy nhiên, khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu đã gặp phải rất nhiều thử thách đầy cam go do chính những người đồng hương với Ngài gây nên. Những thử thách đó khởi đi từ sự kiêu ngạo, tự phụ và thành kiến của người đồng hương.

Tuy nhiên, khi đối diện với những vấn đề như vậy, Đức Giêsu đã không chùn bước, nhưng Ngài vẫn luôn trung thành cách trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha đã trao gửi cho Ngài trong sự khiêm tốn và can đảm.

1. Nguyên nhân dẫn đến việc cản trở Đức Giêsu khi Ngài trở về quê hương

Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại việc Đức Giêsu trở về quê hương của Ngài. Trong chuyến thăm quê lần này, cũng giống như những lần khác, Ngài vẫn vào hội đường và cầu nguyện cũng như thi hành sứ vụ Thiên Sai của mình.

Tuy nhiên, Dân Do thái vốn dĩ là một dân cứng đầu, dễ nổi loạn chống đối lại Thiên Chúa. Họ luôn thách thức Thiên Chúa khi Người không đáp ứng nhu cầu của họ. Hơn thế nữa, họ rất coi trọng nguồn gốc sáng giá của một con người.

Bởi thế, thán phục các phép lạ, nhưng lại coi thường Đức Giêsu vì Ngài xuất thân trong một gia đình không mấy nổi nang! Điều này chính những người Do thái đã thắc mắc: cha ông không phải là Giuse, mẹ ông chẳng phải là bà Maria sao? vì thế, họ không tôn trọng Ngài.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của những người đồng hương.

Tại sao vậy? Thưa, sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.

Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.

Qủa đúng như vậy, vì, xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!

Nhưng sự coi thường đáng tiếc này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.

2. Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay

Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ hay “tạc tượng” họ trong một lối nhìn tiêu cực và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn....

Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”; hay ”Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.

Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.

Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác.... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với người thân. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với anh chị em họ. Những người này thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”;... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Hay như Mc Kenzie nói:”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng ngôn sứ cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!

Trước tiên, sứ mạng ngôn sứ được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.

Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ, được tôn vinh hay giết chết.... Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10; 13,8).

Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không ngôn sứ nào được kính trọng nơi quê hương mình”.

Cần nhớ rõ một điều, chúng ta đi đến đâu, làm bất cứ điều gì, sẽ có 30% người ủng hộ. 30% người chống đối, loại trừg, số còn lại dửng dưng. Đây cũng chính là số phận và cái giá phải trả của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.

Bởi vì làm ngôn sứ không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức..., nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước …. Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).

Thật vậy, sứ mạng ngôn sứ đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính....

Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!

Mong sao, sứ mạng và số phận ngôn sứ của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.

Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.

Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.

home Mục lục Lưu trữ