Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 69
Tổng truy cập: 1362280
NGƯỜI BẠN
NGƯỜI BẠN
Nhiều nhà tu đức đã ví cái chết như một con đường hầm dẫn sang một thế giới khác. Trước khi có đường hầm từ Pháp qua Anh, thì đường hầm dài nhất thế giới dành cho xe hơi sử dụng là đường hầm The Mont Blanc dài 11 cây số, dưới rặng núi Alps từ nước Ý Đại Lợi sang Thụy Sĩ. Người dân Thụy Sĩ đã cắt nghĩa sự đẹp đẽ của xứ sở họ bằng cách nói rằng khi Thiên Chúa hoàn tất công việc sáng tạo thế giới, Ngài thấy nó đẹp đẽ và hoàn hảo, nên đã hôn thế giới một cái. Và nước Thụy sĩ chính nơi Thiên Chúa đã đặt nụ hôn. Năm 1965 khi đường hầm Mont Blanc hoàn tất. Một người đàn ông Ý cùng với một nhóm người đã được mời lái xe xuyên qua đường hầm này lần đầu tiên. Bà vợ của ông rất nhút nhát, sợ hãi và tự hỏi rằng không biết chồng bà có ra khỏi đường hầm mà còn sống không. Vì thế người đàn ông này đã không đi hết đường hầm. Đi được nửa đường ông quay trở lại Ý, và vợ ông rất sung sướng vì chồng bà trở về nhà an toàn và mạnh khỏe. Bởi ông quay đầu trở lại nên đã không trông thấy và viếng thăm được quang cảnh đẹp đẽ của quốc gia Thụy Sĩ ở phía bên kia núi.
Đây chính là trường hợp của Lagiarô. Lagiarô đã đi vào con đường hầm của sự chết. Đi được nửa đường Lagiarô đã quay trở ra: “Lagiarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải…” Lagiarô đã xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Trường hợp này gọi là hồi tỉnh lại, nhưng rồi sau cùng, ông sẽ lại chết, dân chúng lại phải mai táng ông lần nữa!
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Ngài hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Ngài đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Ngài đã diễn tả sự sống lại của Ngài vào bữa tiệc ly trước khi chịu đóng đinh: “Ta đi để dọn chỗ cho các con”. Ta là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài đã loan báo sự Phục sinh của Ngài, ngày thứ ba sau khi bị giết.
Chúa Giêsu hứa hẹn cho chúng ta sự sống lại. Nhưng sự sống đó như thế nào vẫn là một sự bí ẩn. Con đường hầm của sự chết thế nào, cái thế giới cảnh đẹp ở bên kia ra sao vẫn là điều bí mật. Sách Giáo lý Công Giáo số 1000 nói: “Cái “thế nào” đó vượt quá sức tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta, và chỉ đạt được bằng đức tin”.
Một gia đình người Mỹ vừa di chuyển từ tiểu bang California sang Chicago. Sau khi cả gia đình sang Chicago mướn nhà ở và ổn định mọi sinh hoạt rồi mới nhờ một gia đình hàng xóm ở California gửi sang cho họ hai con mèo. Nhìn thấy hai con mèo được gửi bằng máy bay từ Cali sang Chicago đoàn tụ với chủ, chúng ta có thể hình dung ra những gì đã xảy ra với chúng trước khi vui mừng gặp lại chủ.
Có lẽ người hàng xóm tốt bụng đã phải đưa hai con mèo ra phi trường, đặt chúng vào chiếc lồng nhỏ, rồi gửi lên máy bay. Trong lòng máy bay đen tối, chắc là hai con mèo phải sợ hãi, lo âu và kinh hoàng lắm. Chúng kêu “meo meo” như để cầu cứu nhưng chẳng có ai đáp trả. Kêu riết rồi đành im lặng nằm co ro phập phồng lo sợ. Chúng không biết điều gì sẽ xảy ra trong lòng máy bay u tối. Cũng không biết đang đi về đâu nữa. Chiếc máy bay quá lớn so với hai con mèo bé nhỏ. Thật đáng sợ!
Khi máy bay đáp xuống phi trường Chicago, cả gia đình người Mỹ, nhất là mấy đứa trẻ, đang nao nức chờ đón hai con mèo. Hằng giờ nằm trong lòng máy bay đen tối, choáng váng, vừa nhìn thấy chủ hai con mèo kêu lên mừng rỡ: “Meo! Meo!”. Trước khi lên máy bay những tiếng kêu meo meo là lời cầu cứu, lo sợ và van xin. Bây giờ là những tiếng kêu vui mừng vì gặp lại những người thân quen. Chúng cảm thấy bình an nép mình dưới cánh tay vuốt ve âu yếm của đám trẻ.
Cuộc du hành đi vào thế giới bên kia của chúng ta có khác chi đoạn đường nằm trong lòng máy bay tăm tối và bí ẩn của hai con mèo. Đối diện với sự chết chúng ta sợ hãi, lo âu, vì không biết đời sau như thế nào. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chúng ta sẽ sống lại, gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu cùng với tất cả những người thân yêu thánh thiện của mình.
50.Người rung chuông chân thật!.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại một thanh niên tên Lagiarô sống tại thành Bêtania qua đời. Chúa Giêsu là bạn của Lagiarô nhận được tin ấy thì Ngài đến Bêtania và đã làm thay đổi tất cả câu truyện. Sau khi nói với Martha là chị của Lagiarô rằng: "Em con sẽ sống lại... Ta Là Sự Sống Lại Và Là Sự Sống", Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại (Ga 11:23, 25).
"Ta là sự phục sinh và là sự sống", những lời đó nên hiện thực vào ngày đầu Chúa Nhật Phục Sinh. Rồi từ đó những người theo Chúa Giêsu nhận ra rằng Chúa Toàn Năng hiện diện trong cái chết của Đức Kitô để tiêu hủy sự chết. Hãy nghĩ về điều ấy! Chết là kẻ thù lớn nhất của cả nhân loại đã bị quật ngã vĩnh viễn. Hãy suy niệm điều này là: Phép lạ Phục Sinh mà Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô xưa thì nay Ngài vẫn thực hiện trong mỗi người chúng ta!
Tiến trình đi từ cõi chết đến phục sinh đang được thể hiện ngay trong lúc này và từng mỗi giây phút suốt đời chúng ta. Bởi vì cái thuộc về chúng ta là Đức Tin Phục Sinh, chúng ta biết rằng một thế giới mới đang đến: đến trong hân hoan, bình an, yêu thương và tình huynh đệ. Quyền Năng Phục Sinh của Chúa đang hoạt động để xây đắp một thế giới mới ở giữa và xung quanh chúng ta. Tôi xác nhận là tôi đang nói đến thế giới điên cuồng, xáo trộn, nghi ngờ, ô nhiễm, nhân mãn, và tàn phá này. Thế giới này đây! Thiên Chúa thương nó, thật sự Ngài thương nó! Điều ấy thật khó mà tin được trong một vài ngày. Chỉ cần bật TV lên xem tin thời sự lúc 10giờ tối mỗi ngày cũng đủ để một người phải tự hỏi: "Thế giới này còn có hy vọng không?" Bạn hãy thử nhìn những sự việc đang xảy ra xung quanh bạn và bạn nhớ đến câu nói bất hủ trong "Cánh Đồng Xanh" khi Gabriel nói: "Mọi thứ cắm xuống đất đang bị lỏng ra". Đó là tình trạng thế giới ngày nay, mọi thứ cắm xuống đất coi bộ đang lỏng dần!
Nếu như bạn có thể tin vào những bản thẩm tra quốc gia thì chẳng cách chi bạn có thể dựa vào tôn giáo để xin giúp. Mỗi năm, các thẩm viên đi khắp Hoa Kỳ để hỏi mọi người cùng câu hỏi này: "Bạn có cảm thấy tôn giáo đã mất ảnh huởng trên đời sống người dân Hoa Kỳ không?" Và số phần trăm trả lời là "có" cứ tăng dần theo mỗi năm. Có tới bảy mươi lăm phần trăm trả rằng: "Đúng vậy, tôn giáo đang mất dần ảnh hưởng trên người dân Hoa Kỳ". Cứ bốn người thì hết ba người nói có! Đó là tình trạng thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Bạn sẽ không nắm giữ Lời Chúa Giêsu cách thiết thực nếu như bạn không tin thật rằng Thiên Chúa đang hoạt động ngay trong thế giới này đễ làm mới lại mọi sự. Một thế giới mới đang đến. Thiên Chúa đang thực hiện điều này và chẳng sự gì có thể ngăn cản thánh ý Chúa. Đây chính là niềm Hy Vọng Phục Sinh của chúng ta. Niềm Tin Phục Sinh chắc chắn của chúng ta nơi Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì có chết cũng sẽ được phục sinh" (Ga 11:26). Tuy nhiên như thế chưa hết đâu mà còn có nhiều sự hơn thế nữa.
Một bác sĩ kể một câu chuyện cảm xúc về một người mẹ Kitô giáo chăm sóc đứa con năm tuổi của bà đang nằm chờ chết trong nhà thương với cơn đau dằn vặt vì căn bệnh ung thư như sau:
Suốt buổi sáng đó, cô y-tá và những nhân viên nhà thương nghe em nhỏ lập đi lập lại nhiều lần: "Em nghe có tiếng chuông! Em nghe có nhiều tiếng chuông! Chúng đang rung lên kìa!" Khi mẹ em đến và hỏi thăm y-tá xem tình trạng em bé như thế nào. Cô y-tá trả lời: "Thật tội nghiệp, em bị mê sảng suốt ngày hôm nay. Có thể là do ảnh hưởng thuốc đó. Em chỉ nói sảng là em nghe thấy các tiếng chuông reo". Nghe nói thế, người mẹ trở nên tươi tỉnh như hiểu điều gì đó, bà nói: "Thưa cô, con tôi không phải bị mê sảng mà cũng chẳng phải tại thuốc hành đâu. Tuần trước tôi có nói với bé là khi nào bé thấy cơn đau ở ngực dữ dội hơn, khi ấy bé sẽ biết là bé sắp rời tôi rồi đấy, nghĩa là bé sẽ lên thiên đàng. Khi bé cảm thấy thật đau, bé hãy nhìn lên góc tường -- nhìn lên thiên đàng -- và lắng nghe tiếng chuông thiên đàng vì các thiên thần sẽ rung chuông cho bé nghe!" Nói xong, bà lặng lẽ vào phòng con của bà, bà ẵm em bé lên và đong đưa bé trong lòng bà cho đến khi những tiếng chuông chỉ còn là dư âm và em bé đã về thiên đàng. Vị bác sĩ nói: "Người đàn bà tuyệt vời đó đã cảm nghiệm một thực tại khác biệt với những đau khổ đang xảy ra!"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, qua việc làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một định nghĩa chân thật tuyệt vời về đời sống -- một người rung chuông thành thật! "Sự sống mạnh hơn sự chết", Ngài đã nói với chúng ta điều ấy. Vào ngày giờ của Chúa, thế giới này sẽ biến đổi thành mới lạ khác biệt với những gì chúng ta đang thấy hiện nay.
51.Chết để được sống
(Suy niệm của Lm. Đaminh Đặng Văn Cầu)
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh Thánh. Chính Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi của tôi: "Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai bị quăng vào lửa, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin"(Mt 6,30).
Thế là đã rõ, chính Thiên Chúa đã tạo nên, ban tặng vẻ đẹp và sự kiều diễm cho hoa đến nỗi bậc đế vương sang trọng như Salômôn cũng không sánh bằng. Nhưng tôi lại thắc mắc: Hoa đẹp vậy mà tại sao lại chóng tàn thế? Tại sao chỉ một cơn gió mạnh cũng làm nó biến đi, chỗ nó mọc không còn vết tích?
Tôi lại tìm được câu trả lời ngay trong đoạn Kinh Thánh vừa được trích: Chúa muốn qua loài hoa để dạy tôi về sự quan phòng của Ngài và muốn tôi hãy phó thác cho tình yêu thương của Cha trên trời. Ngài còn nhắc tôi nhớ lại câu ca dao đồng nội tương đương với Thánh Vịnh 90 nói về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp nhân thế:
"Đời người khác thể bông hoa
Sáng ngày hé nở chiều ra đã tàn"
Tương đương
"Như cỏ đồng trổ mọc ban mai
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày
Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn... " (Tv. 90, 5-6)
Đúng vậy, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi:
Ấy con người khác chi hơi thở,
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.
Nhưng chẳng lẽ Chúa gửi cho đời những bông hoa đẹp như vậy mà lại chỉ thông báo những điều tiêu cực và chỉ để:
Ngồi lại bên đời thương dĩ vẵng
Nghe trong lòng câu "hoa sớm nở tối tàn"
Theo tôi Chúa muốn gửi đến cho mọi người thông điệp khác nữa:
Hoa đến báo hiệu mùa Xuân tới,
Mùa hy vọng, mùa sự sống vũ hoàn
Sứ điệp loài hoa không chỉ nhắc cho con người về sự mỏng giòn chóng qua mau hết nhưng còn khơi lên niềm hy vọng: Chết không phải là hết mà là:
Thu qua Đông tới Xuân về
Cúc tàn Sen nở trên quê vĩnh hằng.
Anh em Phật giáo quan niệm: Nếu sống tốt, sống lành, sống thiện thì khi Thu qua Cúc tàn sẽ được hưởng mùa Xuân Vĩnh Hằng trên tòa sen. Còn nếu sống ngược lại thì sẽ bị hóa thân làm kiếp khác thấp hơn, xấu hơn. Đó chính là niềm tin có sự sống đời sau được diễn tả qua thuyết luân hồi.
Còn người Kytô chúng ta không chỉ nhận ra những dấu chỉ, những mạc khải của Chúa về sự sống sau cái chết qua thiên nhiên, qua khát vọng sống vĩnh cửu của con người, mà còn được chính Thiên Chúa cho biết về điều đó.
Từ rất xa xưa, qua ngôn sứ Ezékiel Chúa đã thông báo cho Dân Ngài và cũng là cho toàn thể nhân loại một tin mừng: "Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống." (Ed 37, 13)
Lời hứa đó được thực hiện nơi Con của Ngài, và phép lạ "kéo Lazaro ra khỏi mồ" hôm nay là một dấu chỉ, một điều báo trước cho phép lạ vĩ đại nhất, kỳ công lớn lao nhất mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần của Ngài, sắp thực hiện nơi Đức Giêsu Kytô, và chính đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của chúng ta: "Và nếu thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kytô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kytô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần của Người ngự trong anh em" (Rm 8, 11)
Như vậy muốn ra khỏi mồ thì phải vào trong mồ đã, tức là phải chết đi cho xác thịt, cho tội lỗi và sống trong Thánh Thần.
Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta chết cho tội. Hãy vào trong "ngôi mộ tình thương" của Bí ích Hòa Giải để cảm nghiệm sự khốn cùng của kiếp người và tình thương bao la của Thiên Chúa (Tv 129), để được nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi: "Hỡi Lazaro hãy ra khỏi mộ"!
Hãy chết cho xác thịt để hoa trái của Thánh Thần nở rộ giũa cuộc đời:
"Hãy chấp nhận làm cõi lòng tan nát,
như hoa tàn dâng trái ngọt lựng hương"
Chính những trái ngọt lựng hương mang được "làm chín" bởi Thánh Thần và bởi "tấm lòng tan nát dày vò" này sẽ là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích nhất và nhất là đươc sống đời đời với Đấng đã tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống đời đời" (Ga 11, 25). Amen.
52.Mở cánh cửa lòng
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi đến nhà một người quen, sau những câu chào hỏi xã giao, tôi được mời vào nhà. Chủ nhà hết sức lịch sự, mời khách ngồi rồi lo tìm xem có gì để đãi khách. Chủ nhà mở cánh cửa tủ lạnh ra, tôi nhìn thấy có rất nhiều thứ trong đó: thức uống, thức ăn, những thứ dùng ngay được, cũng có những thứ chỉ để dự trữ dùng cho việc nấu nướng. Chủ nhà mang cho tôi trái cây và nước. Tôi vui mừng cám ơn và dùng với gia chủ. Tôi chợt có chút suy nghĩ: nếu cánh cửa tủ lạnh không mở ra, thì tất cả những thứ hết sức cần thiết trong đó, kể cả những thứ mà tôi dùng với chủ nhà, cũng trở nên vô ích. Nhưng vì cánh cửa được mở, và những gì trong đó được đem ra xử dụng đúng với chức năng của nó, nên tạo được sự khoan khoái cho nhiều người.
Ngôi mộ đã chôn vùi Lazarô trong đó, tảng đá lấp cửa đã được đóng kín. Con người của Lazarô trở nên vô ích, vì ông đã bị đóng kín. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người bạn thân của Ngài phải chịu cảnh như thế, Ngài không để cho bạn thân của mình trở nên vô ích. Ngài làm một việc mà với khả năng con người không thể hiểu nỗi: một người đã bị chôn vùi bốn ngày mà giờ đây Ngài lại bảo mở cửa cho bước ra. Việc làm của Ngài đem lại sự ngạc nhiên cho những người thời bấy giờ. Họ muốn chôn vùi đi những gì là vô ích, những gì họ cho là hôi thối. Còn Chúa Giêsu thì bảo hãy lăn tảng đá ra, Ngài kêu con người từ cõi chết sống lại, Ngài còn bảo hãy cởi những dây băng trói buộc ra. Một sự ngạc nhiên thật sự cho mọi người, Lazarô không còn bị đóng kín trong mồ, anh ta đã sống lại. Anh ta không còn nằm yên bất động, vì anh ta nghe lời mời gọi và bước ra khỏi mồ. Anh ta giờ đây đã hoạt động bình thường vì anh ta đã được tháo cởi tất cả những gì đã trói buộc anh, giờ đây anh là một người hữu dụng như bao nhiêu người khác.
Lazarô sống lại vì cửa mồ được mở ra, anh ta đi lại và hoạt động được vì những gì trói buộc anh đã dược tháo cởi. Nếu mọi người không giúp đở cho anh, không thực hiện lời Chúa Giêsu chỉ bảo, nếu mọi người chỉ biết ngồi nhìn một Lazarô đã hết phương cứu chữa, thì làm sao có một phép lạ, làm sao có được một sự sống hồi sinh.
Chúa Giêsu cũng lập lại lời ngày xưa, với những người hôm nay: " Hãy lăn tảng đá ra, hãy cỏi trói cho anh ta ".
Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Nhưng chúng ta chưa chứng kiến được phép lạ, chúng ta cũng không nhìn thấy được sự sống mới nào, vì chúng ta không lắng nghe lời Chúa, nên ngồi yên bất động. Chúng ta ngồi yên bất động trong định kiến của mình, bất động vì bị sự lười biếng trói buộc, bất động vì sự tự hào của sự hiểu biết và những phán đoán khắc khe. Hay chúng ta tự bào chữa cho mình rằng: mình đang giữ đạo tốt, đọc kinh dự lễ hằng ngày, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo. Với bấy nhiêu việc làm đó, chúng ta cho là mình đã nghe lời Chúa rồi sao? Còn cái nhìn của mình về người khác thì sao? Chúng ta cho họ một phán đoán thật nghiêm khắc: họ hết phương cứu chữa, họ đã hôi thối rồi. Những lúc đó nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa: " Hãy lăn tảng đá ra " , lăn tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, để tâm hồn được mở rộng, thì phép lạ trong cuộc sống sẽ được thưc hiện ngay. Mở rộng cánh cửa tâm hồn cũng như mở cánh cửa tủ lạnh ra thì những gì cần thiết phục vụ cho con người mới đem ra được. Còn nếu cánh cửa cứ đóng kín thì mọi vật trở nên vô ích.
Nếu chúng ta biết đứng lên và bước đi đến với những người chung quanh để giúp đở họ khi họ cần đến, đó là chúng ta tự cởi những dây băng trói buộc mình. Tự cởi bỏ đi những hiềm khích nhỏ nhen, ích kỷ để biết cho đi những nụ cười thông cảm, những lời nói yêu thương, những sự giúp đỡ chân thành. Khi đó cũng là lúc chúng ta lăn được tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, mà đem những gì tốt đẹp tiếp đãi mọi người. Nếu làm được như thế, phép lạ được thực hiện ngay, chúng ta nhìn thấy được một sự sống mới hình thành nơi bản thân mình và nơi người khác. Chúng ta vui mừng vì thấy người khác được hạnh phúc, được an ủi, được hy vọng nhờ sự cởi mở của mình. Khi đó chính chúng ta đã được sống lại nhờ biết nghe theo lời kêu mời của Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, biết mở rộng tâm hồn, để đón nhận sự sống mới, sự sống vĩnh cửu từ nơi Chúa.
53.Chính Ta Là Sự Sống Lại
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Ga 11: 1-45 Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người.
Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người. Thánh Phaolô đã minh định: Chúa Giêsu giống như chúng ta hoàn toàn ngoại trư tội lỗi (x. Pl 2,70), bởi đó những giọt nước mắt Chúa đổ ra do bởi một tình yêu trong mối tương giao bằng hữu với Lazarô. Đó cũng là những giọt nước mắt tỏ bày sự bất lực trước cái chết của thân phận làm người. Những giọt nước mắt Chúa đổ ra nói lên sự đồng cảm của Chúa với con người trước sự bất lực này.
Tuy nhiên sứ vụ của Chúa không dừng lại ở việc đồng cảm với thân phận hèn yếu của con người, nhưng còn phải làm cho con người vượt qua sự bất lực của mình để đạt tới sự sống, và không còn phải chứng kiến nỗi đau do sự chết gây nên. Cách thế để con ngừoi đạt tới sự sống chính là tin vào Chúa Giêsu, Đấng là sự sống , được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để ban lại sự sống cho con người. Chính Đức Kitô đã minh định: Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết.
Tin vào Đức Kitô để được sống là một hành vi xác tin rằng, Người chính là nguồn mạch sự sống, và đức tin không là một lời nói suông, nhưng là một cuộc gặp gỡ sống động và cá vi giữa Đức Kitô và người tin. Chính trong cuộc gặp gỡ nầy chúng ta khám phá ra rằng, Đức Kitô không là một con người phi thường, một dị nhân nhưng Người là Đấng được thiên Chúa sai đến trần gian. Một sự nhận biết mang một tầm vóc quan trọng để có thể xác tín rằng: nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.
Sự xác tín như thế nhằm minh định rằng, chính Chúa Kitô không những là nguồn sống mà Người còn làm chủ lấy sự sống, điều đó cũng nhằm nói lên sống hay chết không thuộc về thế gian, nhưng thuộc thẩm quyền của Thiên Chúa. Quả thật thế gian không thể trao ban sự sống, vì ở nơi đó không có suối nguồn yêu thương. Thế gian chất chứa nguyên nhân đưa tới sự chết như sự thù hận ganh tương, lòng tham lam, tính ích kỷ, lòng mê đắm sự tà dâm, sự gian dối, tính kiêu ngạo… Ở thế gian này hết sự dữ này đến sự dữ khác tiếp nối lôi kéo con người đến với sự huỷ diệt, chẳng hạn từ nỗi lo về cuộc sống trong một môi trường sinh thái đang bị huỷ hoại vì nạn ô nhiễm mối trường, đến lo lắng về nạn thực phẩm nhiễm độc không an toàn, nay xã hội lại đối diện vói sự bất an về nạn ấu dâm, các trẻ em không còn được an toàn khi vắng bóng cha mẹ….
Sự sống chỉ đến từ Thiên Chúa, bởi Ngài là Đấng yêu thương, và Đức Kitô xuất hiện trên trần gian là để trao ban sự sống này. Người đã đến với trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa. Người hiện diện để chữa lành, để cứu vớt, mọi hành vi, lời nói của Người đều chất ngất tình yêu thương và từ đó tuôn trào sự sống bất diệt. Nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó, chỉ có những người thường xuyên đón rước Chúa, thường xuyên gặp gỡ và đối thoại với Chúa mới có thể khám phá nguồn sống nơi Người.
Lạy Chúa, cuộc đời chúng con đối diện với bao thách đố, bao hiểm nguy, nhưng như cô Matta chúng con dám thân thưa: Lạt Thầy có Thầy ở đây chúng con không sợ gì, bởi chính Chúa là nguồn ơn cứu độ của chúng con. Amen.
54.Ngài là Sự Sống - Đinh Ngọc Thiệu.
Các bài đọc hôm nay đều nói đến sự chết và sự sống như để dọn lòng chúng ta bước vào mầu nhiệm trung tâm của đạo Chúa: mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô.
Với bài đọc 1, ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho chúng ta hình ảnh một nghĩa trang đầy xương khô và trơ trọi ám chỉ dân Chúa (nhà Ít-ra-en) trong tình trạng lưu đày ở Ba-bi-lon. Trong thị kiến, ông thấy những xương đó ráp lại với nhau thành những bộ xương: thêm gân, thêm thịt, phủ da rồi Thần Khí Chúa thổi sinh khí vào. Lập tữc, các tử thi được hồi sinh, chỗi dậy thành một đạo quân lớn tiến về đất hứa.
Trong thơ gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã dạy: "Chính Thần Khí Chúa ngự trong anh em,...sẽ làm cho thân xác anh em được sự sống mới."
Còn trong bài Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay, Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại. Điều đó khiến cho Mácta, Maria và số đông dân chúng chứng kiến hết sức vui mừng và niềm tin của họ dược củng cố thêm.
1. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi ách tử thần như thế nào?
"Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã Làm Người". Lời kinh trên đã giới thiệu cho chúng ta bước khởi đầu kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài đến trần gian để giải phóng chúng ta khỏi khổ đau, khỏi sự chết, hậu quả của tội nguyên tổ và ban cho chúng ta phúc trường sinh, phúc làm con Thiên Chúa. Ngài đã giải phóng chúng ta bằng cách nào?
Ngài đã giải phóng chúng ta bằng trọn cuộc đời của Ngài nơi dương thế:
- Bằng đời sống khó nghèo, khiêm nhường: Ngài chấp nhận cảnh đời thấp hèn nhất trong xã hội: sinh ra nơi hang đá máng cỏ, ba mươi năm ở Na-da-rét, trong xóm lao động, sống bằng nghề thợ mộc, một nghề rất tầm thường trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ.
- Bằng lời nói: Ba năm cuối đời, Ngài đã đi giảng dạy khắp miền đât Do-thái, loan báo Tin Mừng cho mọi người như lời ngôn sứ Isaia đã báo trước: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18 - 19).
- Bằng hành động: Với trái tim nhân hậu, Ngài đã xoa dịu những tâm hồn khổ đau, cứu giúp kẻ đói nghèo, chữa lành những ai bệnh tật... và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đến nhà Mácta và Maria vào lúc Ladarô, em trai hai bà mới mất, "Đức Giêsu đã thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các ngươi đã dể xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem." Đức Giêsu liền khóc. Tới mộ, Ngài đã kêu người ta đem phiến đá đi và sau khi cầu nguyện, Ngài đã truyền cho Ladarô ra khỏi mồ: Người chết liền ra, chân tay còn đang cuốn vải và mặt còn phủ khăn.
- Bằng chính bản thân: Đức Giêsu đã tự hiến mình chịu chết trên thâp giá đền thay tội lỗi nhân loại và đã sống lại. Đây là tột đỉnh của kế đồ cứu rỗi Klà dấu ấn tình thương bao la của Thiên Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13). Ngài đã chiến thắng sự chết và khải hoàn trong vinh quang. Từ đây, cây thập tự, dấu hiệu của sự chết, trở nên mối giao hoà đất trời và là chìa khoá mở cho chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
2. Những bài học:
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta những nét chính trong kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa: Kế đồ này do Đức Chúa Cha khởi xướng, Đức Chúa Con thực hiện và Đức Chúa Thánh Thần ứng dụng cho nhân loại. Cánh riêng bài Tin Mừng Thánh Gio-an cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu về Đức Tin: Như Mácta và Maria đã mời Đức Giêsu đến chữa cho em mình, chúng ta cũng cần chạy đến với Chúa mỗi khi gặp những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, quyết không tìm đến với những hình thức bói toán mê tín dị đoan. Theo suy nghĩ thường tình, người ta dễ gán cho những ai gặp tai họa hoặc những bệnh tật hiểm nghèo là do chính lỗi của những người đó: "ác giả ác báo" hay "bị Chúa phạt" (theo lối nói của người Công giáo).
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta một cái nhìn mới đúng đắn hơn về cơn bệnh và cái chết của Ladarô: "Bệnh này không đến nỗi phải chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa." Gặp Mácta trong tình trạng Ladarô đã chết và được chôn cất xong xuôi, Đức Giêsu đã phải cố giải thích để bà có thể nhận ra rằng: không cần phải đợi đến ngày sau hết Ladarô mới sống lại, nhưng là ngay bây giờ nếu bà tin vào Ngài, vì chính NGÀI LÀ SỰ SỐNG LẠI và LÀ SỰ SỐNG.
Lạy Cha từ ái, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Ngôi Hai Con Một yêu dấu của Cha làm giá cứu chuộc đền bù tội lỗi chúng con. Chúng con cũng tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Chúa Thánh Thần, Đấng hằng hoạt động để thánh hoá giúp chúng con trở nên những người con tốt lành của Cha.
Xin Cha cho chúng con, khi tham dự vào mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Con Cha, có một lòng sám hối chân thành, sẵn sàng cùng chết với Đức Kitô để cùng được sống lại với Ngài trong vinh quang của Cha. Amen.
55.Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay đã là Chúa nhật 5 của Mùa Chay, vào chỉ còn một tuần nữa chúng ta bước vào tuần Thánh, ấy thế mà điều đặc biệt của Mùa Chay năm nay khác hẳn với mọi mùa Chay mà chúng ta đã từng trải qua, đó là những mấy tháng qua và gần hết Mùa Chay mà ai ai cũng ít để ý đến những gì là chay tịnh, là hy sinh, hãm mình ăn năn đền tội nhưng lo sợ về bệnh dịch Corona, sự lây nhiễm, sự cách ly, lo sợ thiếu ăn thiếu mặc, lo sợ sự chết chóc lan tràn chúng đeo đẳng lấy tâm trí ta từng ngày hôm nay. Bệnh dịch Corona nó làm con người bị tê liệt hoàn toàn. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống của chúng ta. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm chúng ta run rẩy lo âu là sợ hãi. Chính Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Vì sao sợ cái chết? Vì cái chết đưa đến chia ly vĩnh biệt trong có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ, xót xa và đau lòng… như chúng ta nghiệm thấy khi người thân yêu chúng ta xa lìa cuộc đời, hay thấy hàng trăm người chết vì dịch bệnh Corona xảy ra hàng ngày trên thế giới hôm nay.
Và hôm nay trong Tin Mừng, hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lazarô. Cả hai đều tiếc vì Chúa Giêsu không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào... Khi nghe tin về Anh bạn Lazarô chết, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ. Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Và Chúa đã cho cho anh Lazarô sống lại thật sự, cả ba chị em và những người chứng kiến phép lạ vui mừng khôn tả.
Thế giới văn minh nhưng bệnh dịch Corona đã giết chết quá nhiều người hơn chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, những vụ ám sát, hay tai nạn giao thông... Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm như cái chết của tình yêu ở trong lòng con người, cái chết niềm tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, vào sự sống đời đời... nó nguy hiểm hơn nhiều vì cái chết làm cho con người sống buông xuôi, chán chường, mất đức tin, bỏ Chúa, sống khép kín trong ích kỷ, tuyệt vọng và vong thân.
Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria, Ngài đêm lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho họ nhờ họ yêu mến, gắn bó, tin tưởng và cầu xin Chúa Giêsu tha thiết. Vậy, chỉ khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống, đức tin và niềm vui, hạnh phúc cho mọi người xung quanh chúng ta và toàn thế giới đang sống trong lo sợ bệnh dịch này. Chính vì thế, mà trong ngày Chúa nhật đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc kinh truyền tin tại quảng trường Thánh Phêrô không một bóng người, Ngài nói rằng: “Chính Tin Mừng là Lời của Chúa Giêsu đã làm thay đổi thế giới và tâm hồn chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi tín thác vào Lời của Chúa Kitô, để mở tâm hồn đón nhận Lòng thương xót của Chúa Cha và để cho bản thân mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.”
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng vững chắc mà trần gian này đang bị bóng đen của sự chết dịch bệnh lan tràn mạnh đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo. “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta vững tin, can trường chịu đựng và lòng cây trông yêu mến Chúa thiết tha trước mọi đau khổ thử thách như hiện giờ chúng ta không đến nhà thờ dâng lễ được, đang bị cách ly, không buôn bán làm ăn gì được, đang bệnh tật ốm đau và ngay cả cái chết vì chưng chính Lời Chúa trong bài đọc hai xác tín với chúng ta rằng: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”.
56.Hãy khóc vì tội chúng ta
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Đức Giêsu Kitô không chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy 7 tình cảm dạt dào nơi mỗi con người. Bảy tình cảm ấy là hỷ,nộ,ái,ố,ai,ô,dục (vui mừng, giận hờn, thương yêu, ghét ganh, buồn sầu, sợ sệt và ham muốn). Chẳng hạn, tính nóng của Chúa Giêsu: trước sự ngoan cố của những biệt phái, Ngài đã nổi tức giận, Ngài đã răn đe: “khốn cho ngươi, quân đạo đức giả…”. Rồi, trước sự buôn bán làm mất sự thánh thiêng nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đã nổi nóng và xua đuổi. Rồi, tính thương người, trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài thương làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Rồi, tính vui vẻ, Ngài đã vui khi thấy trẻ con đến với Ngài và chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng. Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, hôm nay Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót anh Ladarô, người bạn thân thương của Chúa mà Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại.
Tuy nhiên, Chúa luôn giữ được thế quân bình trong con người của Ngài với 7 tình cảm, Ngài đã để cho chính Thần Khí chi phối mọi hành động hay hay lời nói của mình, chứ không hành xử theo bản năng. Chẳng hạn, trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài kiên trì, đầy ý chí và nghị để đạt được mục đích mình theo đuổi là cứu độ mọi người. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp của tự nhiên hay chính trong cuộc đời của mình, đặc biệt Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối. Tóm lại, đời sống 7 tình cảm của Chúa Giêsu hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được bản năng của mình trong mọi hoàn cảnh. Những 7 tình cảm của Chúa Giêsu hướng thiện, hướng về Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ. Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Ladarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Không! Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì sự ngoan cố của các người biệt phái, phủ nhận uy quyền toàn năng và vinh quang của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Mátta chưa được hoàn hảo ở chỗ là khi Đức Giêsu nói với chị em chị sẽ sống lại!" nhưng cô chỉ tin rằng em cô sẽ sống lại trong ngày sau hết" mà chưa tin rằng Đức Giêsu chính là sự sống lại và là sự sống đang nói với chị đây. Cho nên, Chúa Giêsu củng cố đức tin của chị hoàn hảo ở chỗ là Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Chúa, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.
Chúa Giêsu ngày xưa khóc vì thương, còn chúng ta, chúng ta cũng khóc, ấy như khóc như thế nào? Trong đời này, chúng ta thường khóc rất nhiều từ khi sinh ra cho tới về với Chúa. Rồi trong cuộc sống, vui chúng ta cũng khóc mà buồn khóc, chưa có chồng cũng khóc, có chồng rồi cũng khóc, nghèo cũng khóc, người giàu cũng khóc, chưa say cũng khóc, say xỉn bí tỷ cũng khóc… khóc như thế thì chỉ là khóc bên ngoài mà thôi cũng giống kiểu khóc của các bà phụ nữ thành Giêrusalam theo Chúa Giêsu trên đường đi chịu chết ngày xưa mà nay chúng ta thấy trong chặng đàng thứ tám của đàng thánh giá chúng đọc: “Chúa thấy những người nữ nhân đức thành Giêrusalem đi theo Người, và than van kêu khóc, thì Người đoái lại mà rằng :“Ớ con thành Giêrusalem, chớ khóc thương Ta làm chi, hãy khóc thương các ngươi cùng con cháu các ngươi mà chớ. Ấy Chúa dạy tôi cho biết, nếu tôi chẳng khóc tội tôi, là cội rễ những sự cực Chúa chịu, một khóc Chúa bề ngoài mà thôi, thì Chúa chẳng sá kể”. Rõ ràng những giọt nước mắt bên ngoài mà thôi thì chưa không thật lòng, Chúa nào sá kể. Cho nên, ông bà ta nói đó là: “Nước mắt cá sấu”. Tại sao gọi là nước mắt cá sấu bởi vì cá sấu có một điểm đặc biệt là sau khi nuốt chửng con mồi, khoé mắt cá sấu lại chảy nước tương tự như con người chảy nước mắt khóc thương ai đó. Vì sự tương quan này người ta nghĩ là cá sấu đã khóc cho là kẻ vừa bị nó ăn thịt. Dựa vào tính cách khóc thương kiểu của cá sấu này, người ta liên tưởng đến những hạng người giả dối trong xã hội một mặt hại người, hại bạn, một mặt thì nói lời tử tế hiền lành yêu thương, khóc thương bên ngoài mà thâm hiểm bên trong. Vì vậy, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta rằng tiếng khóc trong lòng, khóc tiếc vì đã phạm tội, khóc tiếc vì đã xúc phạm với nhau gây đau khổ buồn sầu cho nhau trong gia đình, giáo xứ hay ngoài xã hôi khóc tiếc vì mình chưa yêu Chúa giữ giới răn Người dạy cho nên chưa yêu người thật lòng. Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ trong lòng hay niềm vui nào đó. Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc, chịu nạn chết trên cây thánh giá, làm mất tình nghĩa anh chị em trong gia đình và gây nhiều đau thương cho nhiều người trong xã hội. Đây mới chính là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Vì vậy, Mùa Chay, Chúa và Hội Thánh mời gọi biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình để được thứ tha.
Trong đêm Chúa tra tấn đánh đòn, Thánh Phêrô chối Chúa và Chúa Giêsu quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Nước mắt của ông Phêrô không chỉ dừng lại ở việc nhận ra lầm lỗi của mình mà còn là niềm vui vì được thứ tha. Một niềm cảm xúc dâng trào trong con tìm tan nát nay được chữa lành. Cảm nhận được tha thứ nên Phêrô đã khóc. Vâng, giọt nước mắt ăn năn của chúng ta phải phát xuất từ một tấm lòng nát tan vì tội lỗi. Đúng như lời ngôn sứ Gio-en nói: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Bởi chưng, một tấm lòng tan nát dày vò Chúa chẳng nở chối từ bao giờ”. Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đừng để để giọt nước mắt hối tiếc xảy bằng cách ngay bây giờ hãy sống yêu thương, tha thứ, hiền lành, công bằng và công mình chính trực với mọi người đồng thời yêu Chúa một cách chân tình qua việc giữ các giới răn của Người một cách hoàn hảo. Amen.
57.Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy?
2. Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì về Đức Giêsu?
3. Đức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống lại
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Ê-li-sa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Su-nêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Đức Giêsu ra, ta thấy có Phê-rô cũng đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Đức Giêsu, Ngài đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45).
Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại – hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết – chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Đức Giêsu đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Đó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, “nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích” (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế – nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi – thì chỉ có một mình Đức Giêsu mà thôi.
2. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, và cũng là con người như chúng ta
Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm.
Việc Đức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Đức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người. Việc Đức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu. Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Sa-ma-ri (CN 3 mùa Chay) cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi. Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật.
Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời.
Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng “thổn thức trong lòng và xao xuyến” (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (câu 36).
Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai – kể cả Ngài – có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
3. Hãy yêu thương như Đức Giêsu đã yêu thương
Đức Giêsu đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu nhân bản của Đức Giêsu được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể là tình yêu giả hiệu. Chính “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại” (Tt 3,4), và “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Đức Giêsu là hiện thân của Cha đến thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Đức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và hành động. Amen.
58.Suy niệm của JKN- 2.
Câu hỏi gợi ý:
1. Thiên Chúa có đòi hỏi ta tin vào Ngài một cách không bằng chứng, không cơ sở, không hợp lý không? Trước khi mời gọi ta tin vào Ngài, Ngài có cho ta một kinh nghiệm nào về Ngài hầu ta có cơ sở để tin không?
2. Tại sao Đức Giêsu cố ý không về gặp Lagiarô khi ông còn sống mà để ông chết rồi mới về (x. Ga 11,6)? Mục đích của Đức Giêsu khi làm cho Lagiarô sống lại là gì? Để chuẩn bị và củng cố niềm tin cho các ông về sự sống lại của Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Đức tin vào Thiên Chúa phải dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ về tình yêu và quyền năng của Ngài
Trong 28 câu của bài Tin Mừng, chúng ta thấy có đến 9 chữ “tin”. Toàn bài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tin vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa để giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế và thường ngày của mỗi người. Nhờ tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta mới có đủ sức mạnh để vượt qua những khó khăn, và thực hiện những gì cần thiết cho hạnh phúc và cuộc sống của ta. Đành rằng tin là chấp nhận những gì trước mắt chưa rõ ràng và chắc chắn, nhưng Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi chúng ta tin Ngài cách mù quáng, không có bằng chứng xác đáng. Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta tin những gì đáng tin mà thôi. Trước khi đòi hỏi ta tin vào tình yêu và quyền năng của Ngài, Ngài luôn luôn tạo chúng ta cơ hội để kinh nghiệm thật sự về tình yêu và quyền năng của Ngài. Kinh nghiệm ấy sẽ trở thành nền tảng để chúng ta tin vào Ngài trong những hoàn cảnh hay tình huống mới.
Trong đời thường, khi hùn một số vốn thật lớn để làm ăn chung với ai, ta phải tin vào lương tâm và khả năng làm ăn của người ấy. Làm sao ta có thể tin người ấy một cách vững vàng, nếu ta chưa hề thấy người ấy chứng tỏ sự đáng tin của họ? Phải dựa vào đâu để biết được họ đáng tin? – Trước khi hùn một số vốn lớn để làm ăn với ai, ta phải có thời làm ăn với họ trong những vụ làm ăn nhỏ. Khi làm ăn nhỏ, nếu họ tỏ ra đáng tin, ta mới dám tiếp tục làm ăn với họ trong những vụ lớn hơn. Kinh nghiệm về thành quả quá khứ sẽ trở thành nền tảng cho niềm tin trong hiện tại. Những người tự tin vào mình cũng đều có kinh nghiệm về khả năng của mình trong quá khứ. Có thấy được khả năng của chính mình trong quá khứ qua những thành công nho nhỏ, ta mới dám tự tin vào mình trong những chuyện lớn hơn. Niềm tin được xây dựng trên kinh nghiệm của quá khứ như thế mới là niềm tin khôn ngoan và mới vững mạnh được. Niềm tin vào Thiên Chúa cũng phải dựa vào kinh nghiệm quá khứ như thế.
2. Thiên Chúa chỉ mời gọi ta tin và thử thách đức tin của ta khi đã cho ta những kinh nghiệm về Ngài
Khi đặt niềm tin vào một người, có hai thái độ nên tránh:
– một là chưa có kinh nghiệm gì về sự đáng tin của người ấy mà đã vội tin. Đây là thái độ cả tin, nhẹ dạ, rất nguy hiểm và thiếu khôn ngoan.
– hai là đã thấy người ấy tỏ ra rất đáng tin trong những chuyện nhỏ, mà vẫn không dám đặt niềm tin vào người ấy trong những chuyện khác hoặc chuyện lớn hơn một chút. Như vậy, dù người ấy có đáng tin tới mức độ nào, ta cũng không dám tin. Điều này khiến ta mất đi nhiều cơ hội quý trong cuộc đời. Một người làm ăn mà có thái độ này thì không bao giờ làm ăn lớn được, và không bao giờ giàu có được.
Khi tin vào Thiên Chúa, ta cần tránh hai thái độ ấy. Thiên Chúa không bao giờ mời gọi hay đòi hỏi ta tin điều gì mà ta chưa hề có kinh nghiệm về sự đáng tin của nó. Khi Ngài mời gọi hay đòi hỏi ta tin, thì chắc chắn trước đó Ngài đã từng chứng tỏ tình yêu và quyền năng của Ngài để ta có cơ sở cho niềm tin của ta trong những trường hợp sau.
Nhưng khi ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về tình yêu và quyền năng của Ngài, thì Ngài thường thử thách niềm tin của ta. Nếu ta không dám tin vào quyền năng của Ngài mà ta đã từng có kinh nghiệm trong quá khứ, thì ta sẽ không có thêm kinh nghiệm về quyền năng ấy. Đức tin của ta sẽ dừng lại đó, không lớn mạnh thêm, mà trái lại, có thể bị hao hụt đi. Ngược lại, nếu ta tin và chứng tỏ niềm tin ấy bằng sự dấn thân cụ thể, ta sẽ kinh nghiệm thêm lần nữa về quyền năng của Ngài. Nhờ đó đức tin của ta lớn mạnh hơn. Một đức tin vững mạnh sẽ biến đổi ta thành “con người mới” (Ep 2,15; 4,24; Cl 3,10) và đời sống ta thành “đời sống mới” (Rm 6,4; 8,11; Cl 3,3).
Chẳng hạn, khi dân Do Thái chưa có kinh nghiệm về Ngài, thì Ngài cho họ kinh nghiệm ấy. Ngài cho họ vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng và cứu họ khỏi đất Ai Cập. Lần đó, Ngài đã làm cho nước ở Biển Đỏ rẽ ra trước rồi sau đó mới bảo họ bước xuống biển (x. Xh 14,21-22). Ngài không đòi hỏi họ lòng tin vì họ chưa có kinh nghiệm về quyền năng của Ngài. Nhưng khi Ngài yêu cầu các tư tế khiêng hòm bia qua sông Giođan, Ngài không còn làm cho nước rẽ ra trước, mà yêu cầu họ bước xuống sông khi nước sông vẫn còn tràn bờ. Lần này Ngài mới đòi hỏi họ phải tin, vì họ đã có kinh nghiệm về quyền năng của Ngài. Và họ đã chứng tỏ niềm tin của họ bằng hành động cụ thể là dám bước xuống sông khi còn đầy nước. Và Thiên Chúa không để họ mất niềm tin: khi chân họ vừa đụng xuống mặt nước, thì nước lập tức rẽ sang hai bên để họ đi qua (x. Gs 3,13).
Cũng vậy, để chuẩn bị và củng cố niềm tin cho các tông đồ vào sự sống lại của Ngài, Đức Giêsu đã cố ý (x. Ga 11,4.15) cho các tông đồ một kinh nghiệm vô cùng sống động về quyền năng phi thường của Ngài. Đó là Ngài làm cho Lagiarô sống lại, chưa kể trước đó Ngài đã từng làm kẻ chết sống lại nhiều lần trước mặt các tông đồ (x. Mt 9,25; Lc 7,14-15; Ga 4,50-53). Thế mà khi Đức Giêsu chết, nhiều tông đồ đã mất hết niềm tin đến nỗi thất vọng và sợ hãi.
3. Kinh nghiệm cá nhân
Về phương pháp sư phạm của Thiên Chúa để củng cố niềm tin cho mỗi người, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của tôi. Hiện nay, tôi tin khá vững vàng vào sự quan phòng của Thiên Chúa trong đời sống tôi. Vì tôi từng kinh nghiệm khá nhiều về việc Thiên Chúa can thiệp và dẫn dắt tôi một cách lạ lùng. Trong đó có việc rất cụ thể là Thiên Chúa lo cho đời sống vật chất của tôi và gia đình trên 20 năm qua (tính từ khi tôi lập gia đình). Niềm tin của tôi khởi đầu bằng một lập luận. Tôi cho rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và chính con người tôi một cách vô cùng hoàn hảo. Nếu Ngài đã tạo dựng nên bộ máy tiêu hóa ở trong tôi một cách thật khôn ngoan và thông minh tuyệt vời, chẳng lẽ Ngài lại để cho bộ máy ấy thiếu thức ăn để tiêu hóa. Tôi không thể tin rằng Ngài lại là hạng người “đánh trống bỏ dùi” hay “đem con bỏ chợ”: dựng nên bộ máy tiêu hóa một cách hoàn hảo với những đòi hỏi của nó để rồi lại để nó lâm cảnh thiếu thốn, không có gì để tiêu hóa (xem thêm Mt 6,25-34). Nếu tôi có bị đói hay bị thiếu thốn thì tôi tin rằng đó là do lỗi của tôi: tôi đã vi phạm luật thiên nhiên hoặc luật của Ngài khi không làm theo đúng những gì lương tâm và tình yêu mình đòi buộc.
Tin tưởng như thế, nên khi có sự xung đột giữa tiếng lương tâm và nhu cầu sinh sống – nghĩa là nếu làm theo đòi hỏi của lương tâm hay tình yêu ắt có nguy cơ bị thiếu thốn – thì tôi cứ liều hay can đảm làm theo lương tâm, phó mặc chuyện sinh sống của mình cho Ngài. Kinh nghiệm nhiều lần cho tôi thấy: khi suy nghĩ và hành động như vậy, chẳng những tôi không bị thiếu thốn, mà Ngài còn ban cho tôi đầy đủ hơn nữa. Tôi nhận ra Ngài có trăm ngàn cách kỳ diệu để lo lắng cho tôi khi tôi quyết sống theo đường lối Ngài. Trái lại, khi tôi lo sợ thiếu thốn đến nỗi không dám làm theo thánh ý Ngài, không theo đường lối Ngài, thì tôi thường phải trả giá cho việc ấy bằng một sự thiệt hại nào đó, có thể là sự thiếu thốn hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con biết dựa vào tình yêu và quyền năng của Cha mà con đã kinh nghiệm trong quá khứ để tin vững vàng hơn hầu quảng đại và can đảm dấn thân theo đường lối và thánh ý Cha.
59.Một niềm tin
Sống ở trần gian, con người vẫn cứ mơ tưởng tới một thần dược, một loại thuốc thần thiêng nào đó có thể kéo dài cuộc sống hay đúng hơn giúp con người trường sinh bất tử. Thực ra, ở đời chẳng có loại thuốc nào là thuốc bất tử cả.Chỉ có những con người ham sống sợ chết mới đi tìm loại thuốc bất tử mà thôi. Quả thực, nếu có loại thần dược đem lại sự sống vĩnh cửu thì những người giầu có lắm tiền sẽ có cơ hội sống lâu, sống thọ, nhưng đó chỉ là ước mơ, mơ ước trong huyền thoại, trong những chuyện giả tưởng hoang đường. Tuy nhiên, với đức tin Kitô giáo, chúng ta vẫn tin chắc có một loại thuốc bất tử, nhưng nó thuộc ở đời sau mà con người ngay còn ở trong thế giới này phải hết sức tìm cho bằng được...
Tôi vẫn còn nhớ khi còn là sinh viên triết học, tôi đã có nhiều dịp đi thăm trường mù, trường câm điếc. Tôi vẫn có cảm giác thật xót thương những con người xấu số: không nhìn thấy, không nghe được. Có những lần tới với những anh chị em mù, câm điếc, tôi buồn và xót xa vô hạn, nhưng đó chỉ là cảm giác mau qua của những con người được hạnh phúc thấy, nghe và nói được. Điều đọng lại ở nơi tôi sau nhiều lần thăm viếng, làm việc bác ái và cho đến bây giờ, đó là tâm tình ngưỡng mộ và lòng cảm phục những con người mà tôi cho là xấu đó. Ngưỡng mộ và cảm phục lòng tin của họ đặt nơi Chúa, Người mà họ đã đi theo khi họ được lãnh nhận Bí tích rửa tội.Nhiều lần đi thăm họ và đêm về nằm suy nghĩ, tôi nghiệm ra rằng những con người này có một niềm tin thật đáng trân trọng, họ cam số phận và tin tưởng vào Chúa. Họ cho rằng đời này mau qua và họ sẽ được sáng mắt, được nghe và được nói khi họ trở về với Chúa qua cái chết...Đó là niềm tin kiên vững, một đức tin không ai có thể lay chuyển đúng như Lời của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay: " Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết " (Ga 11, 25-26). Những anh chị em mù, câm và điếc, tôi đã gặp trong cuộc đời là bằng chứng diễn tả niềm tin Kitô giáo, niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chính niềm tin này bảo đảm cho họ được sống đời đời. Cái loại thuốc trường sinh mà nghiều người vẫn mong ước đi tìm dù khó khăn biết mấy, dù đắt tiền đến đâu vẫn có người nong nả tìm kiếm để được sống thêm, sống dài, sống lâu ở thế giới này. Nhưng tất cả đều vô ích, y khoa kiếm được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện...Cả đời, thế hệ này qua thế khác vẫn chỉ là một cuộc tìm kiếm vô vọng...Lagiarô được Chúa Giêsu làm phép lạ cho hồi sinh dù anh ta chết, chôn đã bốn ngày trong mồ. Sở dĩ Chúa cho Lagiarô sống lại không phải vì Ngài thân thiết với Lagiarô và gia đình của anh ta, nhưng chính vì niềm tin của Maria và Mácta vào Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại (Ga 11, 25).
Chúa Giêsu cho con người và cho mọi người hiểu rằng phép lạ cho Lagiarô sống lại chỉ là để chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lớn lao, vô cùng trọng đại: chính Ngài sẽ chết và sẽ sống lại khải hoàn vào sáng ngày thứ nhất trong tuần. Niềm tin cho chúng ta hay Chúa Giêsu chết để đưa chúng ta vào cõi sống và đưa chúng ta từ thế giới tạm bợ này tới quê hương vĩnh cửu trên trời.
Niềm tin Kitô giáo làm nổi bật Bí tích rửa tội bởi vì có qua phép rửa, có Chúa Thánh Thần, chúng ta mới ra khỏi sự tối tăm của tội lỗi. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma: " Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì tuy thân xác vẫn là đồ hay chết vì tội, nhưng Thần Khí là sự sống vì đức công chính. Nếu Thần Khí của Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cư ngự trong anh em, thì Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ tác sinh thân xác chết dở của anh em, nhờ bởi Thần Khí của Người cư ngụ trong anh em".
Mùa Chay đã giới thiệu cho chúng ta về Nước Trường Sinh, Lời mạc khải, Lời Hằng Sống: "Nước Chúa Giêsu ban sẽ trở thành mạch suối... vọt lên cho tới sự sống đời đời". Nước ấy chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Nước ấy sẽ rửa mọi người muốn trở thành con cái Chúa... Chúa Nhật V Mùa Chay, năm A, hôm nay nói lên phép lạ lạ lùng Chúa làm cho Lagiarô sống lại, và đó cũng là lời tiên báo, nhờ phép rửa tội, chúng ta cũng sẽ được phục sinh từ cõi chết tới cõi sống đời đời. Đó là đức tin của người Kitô hữu và là đức tin của Hội Thánh Công Giáo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến và hiểu sâu xa hơn về Bí tích rửa tội chúng con đã lãnh nhận. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam