Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 77

Tổng truy cập: 1356350

NGƯỜI CON CỦA ĐỨC MARIA

NGƯỜI CON CỦA ĐỨC MARIA

 

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)

Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế chính thức thi hành một thừa tác vụ hy tế. Cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện và nghe đọc sách thánh. Bất cứ người nam trưởng thành nào cũng có quyền phát biểu trước cộng đoàn. Vì thế, Đức Giêsu lên tiếng giữa hội đường Nazarét, không phải vì một đặc ân thánh nào cả, nhưng chỉ là 1 thành viên trong cộng đoàn. Rất nhanh các thính viên thoáng thấy rằng người nói với họ không phải là một người như những người khác. Mặc dầu họ đã biết Ngài, thấy Ngài sống nhiều năm tháng giữa họ và không có dấu hiệu gì bên ngoài cho thấy Ngài chuẩn bị ăn nói và hành động. Họ linh cảm một cái gì lạ thường.

Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng tâm lý thông thường. Khi người ta có một hình ảnh nào về ai, họ không chấp nhận cho người ấy tỏ ra có những nét không phù hợp với hình ảnh này. Người ta tưởng biết một người nào đó, nhưng sự thật là họ xếp loại người ấy, họ dán cho người ấy một nhãn hiệu và đương nhiên người ta trở nên mù quáng đối với những gì không phù hợp với nhãn hiệu. Và họ vấp phạm vì Người. Dân chúng Do thái vấp phạm vì không nhận ra Đức Giêsu mà họ đã biết. Cho nên thay vì đón nhận các phần mầu nhiệm thoáng hiện ra, họ loại bỏ nó. Sự chối từ tiếp nhận làm tê liệt sự quảng đại của Đức Kitô. Ngài không thực thi quyền năng làm phép lạ được tại Nagiarét, ngoại trừ một vài việc lành cho một hai người bệnh.

1) ‘Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria sao?

‘Con bà Maria’ có nghĩa là lúc bấy giờ thánh Giuse đã chết. Và Đức Giêsu được nói đến như là người con độc nhất của bà góa Maria. Và người ta cũng biết danh xưng ‘anh em’ áp dụng cho: Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon, ám chỉ một sự liên hệ bà con gần xa nào đó mà thôi. Người ta đã đưa ra giả thuyết ‘người con của bà Maria’ để nói rằng Đức Maria – có thai trước lúc thành hôn với Giuse. Trong ngôn ngữ cảu thánh Marcô, điều này có thể là một xác quyết gián tiếp về việc sinh nở mầu nhiệm của Đức Giêsu, con của bà Maria theo xác thịt, chứ không phải của thánh Giuse.

Có cái gì ẩn núp sau câu hỏi của người Do thái? Đó là một sự khó khăn sẽ luôn luôn làm cản trở niềm tin cho đến tận thế: chính là mầu nhiệm TC tự mặc khải qua con người. Đây là điều làm khó chịu, bức rứt, gây giận dữ cho những đầu óc bướng bỉnh. Thái độ của dân làng Nagiarét từ chối chấp nhận Đấng họ nhận ra là sứ giả TC, loan báo sự khó khăn sẽ đến cho nhiều người là nhận ra trong con người của Đức Kitô, TC thật và đồng thời cũng là người thật.

2) Chúng ta hãy dừng lại ở từ ngữ: Con bà Maria.

Để một bên, ý nghĩa xác thực trong thánh Marcô, từ ngữ này gợi cho ta một thực tại sâu xa có tầm mức quan trọng về phương diện thần học và phong phú về phương diện tu đức. Những ai chọn con đường thẳng để đi đến gặp gỡ Đức Kitô: những người ấy phải nài xin Đức Trinh nữ Maria mặc khải Con Ngài cho họ. Nhận biết Đức Giêsu như là con của Đức Maria, tức là đón nhận Ngài, không như một niềm tin trừu tượng, nhưng như một ngôi vị nhân loại rất thực, kề cận và sát với chúng ta (nhất là nếu chúng ta tự trở nên bé mọn), một ngôi vị thần linh và thần linh hóa trong một bản tính nhân loại chung cho Ngài và cho chúng ta. Những người bạn thân thiết nhất của Đức Kitô biết rõ điều họ phải tùy thuộc vào sự trợ giúp của Đức Maria.

 

33.Chúa Nhật 14 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Anfonso)

Người ta bảo rằng 1 người Việt làm việc hiệu quả bằng 3 người Nhật, nhưng 2 người Việt làm việc chỉ bằng một người Nhật, và 3 người Việt làm việc hiệu quả sẽ thua 1 người Nhật. Vì sao vậy? Thưa đó là vì tinh thần cộng tác làm việc chung của người Việt mình chưa cao. Mình lại có thói quen không tốt đó là hay chê bai người khác. Chê cho ê mặt, chê cho bõ ghét, chê để dìm hàng, chê cho đã miệng, chê vì thích chê. Đơn giản, vì không muốn ai hơn mình.

Trong khi có những người đón nhận và đi theo Chúa vì họ được thu hút bởi lời giảng dạy của Chúa thật khôn ngoan và thâm thúy, bởi việc Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, thì cùng lúc ấy cũng có những người từ khước, chế nhạo Người bởi hàng loạt câu hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôseph, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về thân thế của Chúa Giêsu nhằm giảm uy thế của Người.

Dân làng nơi quê hương Nazareth đã đánh giá Chúa Giêsu theo cái nhìn bề ngoài rằng Người chỉ là con bác thợ mộc và bà Maria, vì thế mà từ chối tin vào Chúa. Quả đúng như câu chân lý bất hủ mà ông bà chúng ta bảo rằng “Bụt nhà không thiêng” là vậy. Điều này làm Chúa Giêsu cảm thấy đắng lòng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Tuy nhiên, dẫu cho những lời ong tiếng ve do sự ghen tỵ và thành kiến, thậm chí cả những khổ hình mà người ta dành cho, Chúa Giêsu không trả đũa nhưng vẫn tiếp tục yêu thương và thứ tha, Người âm thầm đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ rồi tiếp tục sang các làng bên giảng dạy.

Vâng, để có thể có được những ơn lành của Chúa, điều kiện là phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới có thể nhận ra Chúa vẫn tiếp tục thực hiện phép lạ hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Và phép lạ trên hết của những phép lạ đó là đó là mọi thứ trong vũ trụ vẫn diễn ra hằng ngày một cách trật tự. Song, chúng ta lại bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Chúng ta bỏ lỡ tiếng Chúa kêu gọi chúng ta nhận ra ăn năn sám hối. Thậm chí, chúng ta cũng bỏ lỡ việc nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa nơi anh chị em xung quanh, nào là trước những người đang gánh chịu thiên tai, hỏa họan, đói kém, trước cảnh ngộ cùng khốn hay những đớn đau đầy nước mắt.

Khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta trở nên Kitô hữu, trở thành người nhà, người họ hàng, đồng hương với Chúa. Vậy chúng ta có đón nhận Chúa một cách thành tâm và sẵn lòng qua Lời Chúa, qua việc cử hành các Bí tích, qua Giáo lý Giáo hội giảng dạy, qua việc suy gẫm cầu nguyện riêng với Chúa. Đừng để việc gặp gỡ Chúa trở nên “quen quá hóa nhàm”. Đức tin đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những dáng vẻ bề ngoài để nhận ra Chúa. Người hiện diện cách đơn sơ nơi tấm bánh bé nhỏ trên bàn thờ, Người gặp gỡ chúng ta khi ta lặng thinh ngắm nhìn thánh giá Chúa, Người đến với chúng ta qua những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Và Người cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình.

Lạy Chúa, không ai được phép viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ trở nên môn đệ Chúa, loan báo Tin Mừng nước Chúa cho anh chị em. Vâng, một cử chỉ dù rất đơn sơ nhưng được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa như lời của thánh Têrêsa thành Calcutta nói: “Điều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện, nhưng là mức độ tình yêu đã đặt vào mỗi công việc ấy”. Xin cho con tập biết sống đức tin được thể hiện bằng đức ái với một nụ cười thân thiện, một lời nói động viên, một cử chỉ sẵn lòng giúp đỡ anh chị em. Amen.

 

34.Đánh giá theo lý lịch

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.

Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.

Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.

Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.

Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.

home Mục lục Lưu trữ