Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 40
Tổng truy cập: 1359433
NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ BÁCH HẠI
NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ BÁCH HẠI
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người” (Mc 9,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến, Trong một thế giới còn nhiều sự dữ và nhiều người xấu, người sống công chính có thể chịu nhiều thiệt thòi vì bị người khác dèm pha, đố kỵ, hãm hại... Tuy nhiên, những khổ đau mà người công chính phải chịu lại sinh nhiều ơn ích cho chính những kẻ làm hại mình.
Kitô hữu chúng ta được kêu mời noi gương Ðức Giêsu sống công chính như thế đó. Tuy nhiên, nếu không được Chúa giúp sức thì chúng ta khó mà sống được như thế.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống theo gương Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng ta ganh ghét đố kỵ với những người tốt hơn chúng ta.
Nhiều lần vì sợ dư luận dèm pha, chúng ta không dám sống tốt như lý tưởng kitô giáo đòi hỏi.
Nhiều lần vì muốn yên thân, chúng ta không can đảm bênh vực những người vì làm tốt mà bị ganh ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 2,12.17-20)
Những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:
Người công chính chống lại những việc làm xấu xa của phường vô đạo;
Cách sống tốt của người công chính làm lộ rõ cách sống xấu xa của chúng;
Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có bênh vực người công chính hay không.
2. Ðáp ca (Tv 53)
Mặc dù bị phường vô đạo chống đối và tìm hại mạng sống, nhưng người công chính vẫn trông cậy vào Chúa và kêu xin Chúa cứu giúp mình.
3. Tin Mừng (Mc 9,29-36)
1. Chính Ðức Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là Ðấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.
2. Do đã quen với quan niệm về một Ðấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Ðức Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Ðức Giêsu thành lập.
3. Ðức Giêsu sửa dạy các ông: trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Ðiều thứ nhất phải để ý là phục vụ: càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Ðức Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Ðiều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Ðức Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).
4. Bài đọc II (Gc 3,16--4,3) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê thuyết phục tín hữu từ bỏ thói xấu ganh tị tranh chấp:
Ở đâu có ganh tị tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa;
Người xây dựng hòa bình sẽ thu hoạch hoa trái là sự công chính;
Xung đột và chiến tranh bắt nguồn từ những ham muốn bất chính của con người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Người công chính bị bách hại
Elia Wiesel, một nhà văn Do Thái từng đoạt giải Nobel, kể câu chuyện sau đây:
Hồi đó ông đã bị quốc xã Ðức bắt giam trong trại tập trung Auschwitz. Ðây là một trại giam nổi tiếng là tàn bạo. Thỉnh thoảng bọn cai ngục bắt một số người đưa vào phòng hơi ngạt cho họ bị chết một cái chết rất khủng khiếp. Một hôm, có một đám trẻ Do Thái được chọn để hôm sau được đưa vào phòng hơi ngạt ấy. Nhìn thấy đám trẻ ngày mai phải chết, Elia Wiesel động lòng thương nên xin bọn cai tù cho phép ông được ở chung với bọn trẻ ấy một đêm. Thật là ngạc nhiên, bọn cai tù đồng ý ngay. Ðêm đó Elia Wiesel kể cho đám trẻ hết chuyện này đến chuyện khác, mong làm chúng được vui. Nhưng kết quả trái ngược hẳn, ông không làm chúng vui được mà chỉ làm cho chúng khóc, và chính ông cũng phải khóc theo. Sáng hôm sau, ông buồn bã tiễn chân đám trẻ vào phòng hơi ngạt rồi trở về phòng giam của mình, mặt mày tiu nghỉu. Bọn cai tù thấy thế thì cười ngặt nghẽo. Thật là vô tình và cũng thật tàn nhẫn.
Câu chuyện trên chứa đựng những ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay. Qua chuyện ấy, chúng ta thấy sự trơ tráo của những kẻ làm điều ác, người vô tội bị bách hại và chiến thắng của sự dữ (bài đọc I); chúng ta cũng thấy một tấm gương phục vụ những người bé mọn mà Ðức Giêsu đề cao trong bài Tin Mừng.
Trong hoàn cảnh càng tối tăm bi thảm thì hành động phục vụ những kẻ bé mọn càng chói sáng rực rỡ. Trong trại tù Auschwitz, tất cả những gì tốt lành và tử tế đều bị chà đạp, còn những gì là ích kỷ, tự tư tự lợi thì lại được coi là khôn ngoan. Lòng thương xót thì hiếm hoi như một cánh hoa giữa mùa đông giá lạnh.
Elia Wiesel đã vươn lên trên tất cả. Ông dám mạo hiểm cuộc sống để kết bạn với những đứa trẻ sắp bị xử tử. Thực ra ông chẳng có câu trả lời nào để giải đáp cho các em, cũng chẳng làm gì được để cứu các em. Tất cả những gì ông làm được chỉ là cùng sống với các em trong những giờ cuối cùng của cuộc sống, để các em không cô đơn trong đau khổ. Phần nào đó ông là hình ảnh của Ðức Kitô.
Ðức Kitô là một người công chính. Tuy nhiên Ngài cũng phải chịu khổ: suốt đời Ngài đã bị kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ Ngài bị như thế là vì Ngài quá tốt lành, tốt quá nên những kẻ gian ác không chịu nổi. Sự tốt lành của Ngài vạch trần sự gian ác của họ, Ngài càng tốt lành thì sự gian ác của họ càng lộ rõ.
Ðức Kitô đã chiến thắng, chiến thắng không phải bằng cách đè bẹp sự gian ác hay trốn tránh sự gian ác, mà bằng cách đối diện với nó và vượt qua nó. Ngài ban can đảm và hy vọng cho tất cả những ai hy sinh bản thân cho tha nhân vì sự công chính. (Viết theo Flor McCarthy)
2. Bàn về cao vọng
Có cao vọng không phải là gì sai trái cả. Thực vậy, sống thì phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên cao vọng có thể vượt quá tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình ước vọng.
Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh cuộc sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chí cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Ðức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiểu gì về sứ mạng Ðức Giêsu. Bởi đó, Ðức Giêsu gọi họ lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Ðức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vì cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
Cao vọng sai làm hại cho sự hiệp nhất của cộng đoàn, nó biến thành ích kỷ và ganh ghét, và nó có thể sinh ra đủ thứ thái độ xấu xa đối với nhau.
3. Nghề nghiệp và địa vị
Khi Nelson Mandela còn là một sinh viên trường Luật ở Johannesburg, ông có một người bạn tên là Paul Mahabane, một thành viên của Hội nghị quốc gia Châu Phi và là một người có tiếng tăm. Một hôm, hai người đang đứng ngoài cổng Bưu điện thì gặp một công chức da trắng khoảng 60 tuổi. Ông này bảo Mahabane vào mua cho ông vài con tem. Thời đó việc một người da trắng sai bảo một người da đen làm một việc gì đó cho mình chẳng có gì lạ. Nhưng Paul Mahabane từ chối. Viên công chức rất giận, ông hỏi:
- Mày có biết tao là ai không?
Paul bình tĩnh trả lời:
- Tôi không cần biết ông là ai. Tôi chỉ biết ông là gì thôi.
Ông công chức da trắng hét lên: “Mày sẽ phải trả giá về việc này đó”. Rồi ông bỏ đi.
Người da trắng này nghĩ rằng phẩm giá của ông cao hơn Paul Mahabane chỉ vì ông là một công chức; và vì là công chức nên ông có quyền sai khiến kẻ khác, nhất là người da đen.
Chúng ta cũng có khuynh hướng đánh giá người khác theo địa vị và nghề nghiệp. Gặp một bác sĩ thì chúng ta kính trọng, còn gặp một người công nhân thì chúng ta coi thường. Nhưng như thế là vừa bất công vừa ngớ ngẩn, bởi vì cái làm nên một con người không phải là địa vị và nghề nghiệp mà chính là bản chất của người đó. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Bài học bất ngờ về giá trị con người
Nếu muốn hiểu đoạn Tin Mừng này rõ hơn, chúng ta cần xác định thời điểm của nó: Khi ấy, Ðức Giêsu đã rao giảng được khoảng 3 năm., sắp tới lúc Ngài kết thúc sự nghiệp của mình ở trần gian, một kiểu kết thúc mà không ai có thể ngờ được, nghĩa là kết thúc bằng cái chết đớn đau tủi nhục trên Thập Giá. Chính vì đoán trước rằng không ai có thể ngờ được việc đó cho nên Ðức Giêsu phải nói trước cho các môn đệ mình hay, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang. Những lời báo trước về cuộc khổ nạn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin Mừng này là lần loan báo thứ 3 rồi đó. Dù vậy, các môn đệ vẫn không hiểu. Họ cũng đoán là Ðức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cách chiếm lấy quyền bính và lên ngôi vua. Chính vì nghĩ như vậy nên họ bắt đầu tranh dành nhau xem trong cái chính phủ mà Ðức Giêsu sắp lập ấy, ai trong nhóm họ sẽ được giữ địa vị nào.
Chính trong hoàn cảnh ấy, Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ mình một bài học, bài học thật bất ngờ: Chúa nói: “Ai muốn làm lớn thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Bài học này rất bất ngờ. Bởi vì nó không giống quan niệm của người ta vẫn nghĩ từ xưa tới nay. Theo quan niệm cũ ấy thì ai là người lớn? Thưa là người ở địa vị cao, người được những kẻ khác hầu hạ. Còn ai là người nhỏ? Thưa là người ở địa vị thấp, người phải hầu hạ kẻ khác. Thí dụ như khi chúng ta thấy một chiếc xe du lịch, trong số có hai người ngồi: một người ăn mặc đàng hoàng sang trọng ngồi ở băng sau, và một người ăn mặc xuề xoà ngồi cầm lái phía trước. Tự nhiên ta biết trong hai người đó, ai lớn, ai nhỏ: người lớn chính là cái ông ăn mặc sang trọng đang ung dung ngồi phía sau, còn người nhỏ là kẻ ăn mặc xuề xoà phải lái xe cho ông kia. Hay khi chúng ta đang ngồi trong một phòng khách: có một người đang ngồi tiếp chuyện với ta, uống nước trà, ăn bánh, hút thuốc, và một người nữa lo bưng bánh, rót nước. Hỏi ai là người lớn? Dĩ nhiên là người đang ngồi. Còn ai là đầy tớ? Dĩ nhiên đó là người đang phục vụ.
Nhưng Ðức Giêsu thì dạy ngược lại,. Nếu Ðức Giêsu cũng chứng kiến những cảnh trên và ta hỏi Chúa: Thưa Chúa, trong chiếc xe du lịch ấy có hai người, ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu sẽ trả lời ngay: cái ông ngồi phía sau là nhỏ, còn người tài xế là lớn. Nếu ta hỏi tiếp: còn trong phòng khách cũng có hai người, vậy thưa Chúa ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu cũng trả lời không chần chừ: người đang ngồi là nhỏ, còn người đang phục vụ là lớn.
Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm, Ðức Giêsu không chủ trương đảo lộn tất cả, biến kẻ ở địa vị cao thành người nhỏ và cho kẻ ở địa vị thấp thành người lớn đâu. Tiêu chuẩn Chúa đưa ra để đánh giá một người, ấy là sự phục vụ. Như thế ai biết phục vụ thì là người lớn. Còn kẻ không phục vụ thì là người nhỏ. Người ở địa vị cao mà biết phục vụ thì vẫn là người lớn, còn kẻ ở địa vị thấp mà không phục vụ thì cũng vẫn là người nhỏ.
Nghĩa là: giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Ðể minh hoạ cho bài học này, sau đó Ðức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy là dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thương nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh hoạ cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tuỳ vào địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
- Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món ăn này dỡ, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung; nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.
- Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông Chủ Tịch Hội Ðồng Giáo Xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.
- Thí dụ như Linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở Chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức Linh mục. Vì thấy Cha quá kém cỏi. Ðức Giám Mục đưa Cha đi làm Cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng Cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày Cha chỉ nghỉ ngơi 3,4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi toà giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các Linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ Cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của Cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội Nước Pháp mà có được chỉ một vài Linh mục như Cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên Thánh,. Ðó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một Linh mục học kém, một Cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của Cha thật là lớn.
Bài học của CG hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.
Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Xin Chúa ban thêm cho chúng ta sự khiêm nhường và sự siêng năng, để chúng ta có thể thực hành bài học phục vụ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay.
5. Tính ganh ghét
Trong lúc Ðức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh dành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Ðức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.
Trong bài Thánh Thư hôm nay, Thánh Giacôbê cũng bàn về tính ganh ghét này. Ngài nói “Ở đâu có ganh ghét và cải vả thì ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”. Thánh Giacôbê là một người thực tế, nhận xét này của Ngài cũng rất thực tế. Thật vậy chỗ nào có ganh ghét thì chỗ đó phát sinh đủ thứ tệ đoan:
a/ Gia đình chẳng hạn: lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn...thì trong nhà có những háy nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cải vả nhau, thậm chí xô xát nhau nữa... Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hoả ngục.
b/ Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bả, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác.
c/ Ngay trong những nơi đạo đức như các dòng tu cũng thế. Lẽ ra chốn tu trì phải là nơi sốt sắng thánh thiện. Các Tu sĩ thương yêu nhau và giúp nhau nên thánh. Khi một người đi tu, họ tự nguyện từ bỏ mái ấm gia đình và chọn tu viện là gia đình mới, chọn các tu sĩ sống chung trong nhà là những người anh chị em mới. Lẽ ra họ sẽ được hưởng một thứ hạnh phúc siêu nhiên bù đắp cho thứ hạnh phúc tự nhiên mà họ đã tự nguyện từ bỏ. Nhưng nếu trong cộng đoàn có một vài người ganh ghét, thì chân tu viện trở thành ngột ngạt, đời sống cộng đoàn trở thành gánh nặng.
Quả thực thánh Giacôbê tông đồ đã nói rất đúng “Ở đâu có ganh ghét thì ở đó có đủ thứ tệ đoan”. Ta hãy phân tích thêm câu nói này. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào?
1/ Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét:
Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.
Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.
2/ Tai hại thứ 2 của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét. Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đều có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử: một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay - mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vật. Biết xử thế nào bây giờ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.
3/ Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa. Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế.
Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên; các tông đồ ganh ghét tranh dành địa vị với nhau đang lúc Ðức Giêsu sắp bị bắt bị giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm dời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.
Xin Chúa giúp chúng ta biết khiêm nhường nhìn đúng khả năng và giới hạn của mình. Và xin Chúa giúp chúng ta biết cố gắng vui với thành công của người khác, buồn với thất bại của người khác, và đoàn kết với nhau, giúp nhau càng ngày càng hay hơn, tốt hơn.
6. Người lớn nhất
Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:
Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.
Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.
Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.
Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.
****
“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc.9,37).
“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Ðức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Ðó chính là sứ điệp mà Ðức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Người còn khẳng định: “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc.9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.
Ðó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Ðức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Ðức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy: khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói: “Ðặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
*****
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen.
(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
7. Tiếp đón em nhỏ
“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.
Tôi thán phục giáo huấn của Ðức Giêsu về cách làm lớn, một giáo huấn rất ngược đời nên rất đặc biệt: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ”. Nghĩa là làm lớn không phải để sai khiến người ta phục vụ mình, trái lại phải phục vụ người ta.
Nhưng tôi càng thán phục hơn vì Ðức Giêsu đã không nói phục vụ suông, Ngài còn chỉ rõ phải ưu tiên phục vụ những kẻ nhỏ nhất.
Gia đình bên cạnh nhà tôi có một người cha được con cái thương mến còn hơn thương mẹ chúng, bởi vì người cha này tự dành lấy trách nhiệm chăm sóc các con: chính tay ông tắm rửa cho các con; chính ông dỗ ngủ các con; ông bồng bế con nhiều hơn mẹ chúng. Ông là người lớn nhất trong nhà nên phục vụ nhiều nhất. Ông còn đặc biệt ở điểm này nữa là quan tâm chăm sóc đứa con nhỏ nhất hơn các đứa khác. Bởi vậy khi có thêm một đứa em chào đời, thì đứa anh hay chị gần nó nhất tự biết “thân phận” của mình, nhường cho em nhỏ được hưởng những chăm sóc ưu tiên của ba.
Tóm lại, bài học phục vụ đã hay, mà bài học ưu tiên phục vụ kẻ nhỏ nhất còn hay hơn.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”, và chính Người đã thực hành điều Người dạy, là chịu tử hình thập giá để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và dâng những lời nguyện sau đây:
1. Xin cho mọi giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / biết loại bỏ mọi hình thức thống trị và chuyên chế / để trở thành người phục vụ theo gương Chúa Kitô.
2. Xin cho những người đang làm lớn trong xã hội / đừng lợi dụng chức quyền để tìm hiểu giàu sang danh vọng / nhưng biết quan tâm trước hết đến việc phục vụ đồng bào mình.
3. Xin cho những người nghèo đói, thất nghiệp, tị nạn, không nhà không cửa, bị xã hội bỏ rơi / được gặp những người biết quan tâm an ủi và giúp đỡ thật tình.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết chú ý đến những người gặp khó khăn thử thách / người ở trong họ đạo cũng như mọi người mình có thể gặp / để cùng nhau tìm cách phục vụ họ.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã làm gương và dạy chúng con phục vụ cho nhau, khi Chúa rửa chân cho các môn đệ, và nhất là khi Chúa hy sinh mạng sống chuộc tội chúng con; xin giúp chúng con luôn sẵn sàng phục vụ mọi người như Chúa đã dạy. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi những tính xấu ganh ghét, đố kỵ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an ”
VII. Giải tán
Sống công chính theo gương Ðức Giêsu thật là khó. Nhưng đó là sứ mạng của người môn đệ Chúa. Với sự trợ giúp tích cực của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống công chính, cho dù có thể gặp những khó khăn, thiệt thòi.
20.Xin Cha tha cho họ vì họ lầm...
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Có người dí dỏm rằng mô-đen (mode) là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài rồi lại tóc ngắn. Tóc ngắn một thời rồi người ta lại để tóc dài, và sau đó trở về tóc đầu đinh, kiểu húi cua hay láng bóng như chưa mọc tóc. Các kiểu mô-đen y phục cũng tương tự. Các kiểu dáng rộng hẹp, dài ngắn cứ luân phiên thay đổi nhau. Hình như ít có sự gì mới ở dưới trần gian này, nhất là những vấn nạn liên quan đến ý nghĩa cuộc đời con người. Một trong những vấn nạn ấy là nguồn gốc của các hiện hữu, cách riêng của loài người.
Những chuyện xem ra lạ đời như chuyện đồng tính luyến ái đang nở rộ đó đây, đặc biệt tại các nước ở phương trời Âu, Mỷ, thì vốn đã xuất hiện từ xa xưa mà câu chuyện hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh chứng. Bàng bạc trong thuyết bất khả tri hay trong chủ nghĩa hoài nghi và rồi cách minh nhiên trong chủ thuyết vô thần, người ta chủ trương rằng các hiện hữu đời này là do bởi tự nhiên hay ngẫu nhiên. Tác giả sách Khôn ngoan xưa đã từng ghi lại nghĩ suy của “quân vô đạo” như sau: “Đời ta thật buồn sầu vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt…” (Kn 2,1-2). Với cái nhìn về cuộc đời như trên, người ta sẵn sàng hô hào: “Nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần… Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì…Nào ta kết án cho tên công chính chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” (Kn 2,6-20).
Thời Chúa Giêsu, nhóm Xađốc vốn thân chính quyền. Họ được hưởng nhiều lợi lộc mà dĩ nhiên trong đó, ít nhiều cũng có những lợi lộc bất chính, bất minh. Họ là những người đã chủ trương rằng không có đời sau. Trái lại nhóm Biệt phái thì tin có đời sau. Vấn đề đặt ra đó là vì người ta đã theo một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó và rồi cách sống của họ chỉ là hệ quả kéo theo hay là người ta dùng, đúng hơn là lợi dụng một cái nhìn, một quan điểm về thế giới, về con người để biện minh cho thái độ sống của mình? Chúng ta không thể tiên thiên khẳng định điều này hay điều kia đúng. Tuy nhiên với trường hợp của “quân vô đạo” mà sách Khôn ngoan đề cập thì có thể nói là đại đa số trong họ dùng lý lẽ này nọ để biện minh cho lối sống hưởng thụ, bất công, gian ác của mình.
Vậy thử hỏi rằng những người dùng những quan điểm nọ kia để biện minh cho lối sống thiếu lành mạnh, thiếu ngay thẳng của mình, họ có cảm thấy áy náy hay ngượng ngùng khi tuyên bố mọi sự hiện hữu là do ngẫu nhiên chăng? Theo thiển ý, chắc hẳn ít nhiều ngay từ đầu cũng vẫn có. Tuy nhiên với thời gian, khi thực tiển lại dường như ứng hợp với luận lý của họ một cách nào đó đã khiến họ vững tin vào cái nhìn của mình cũng như an tâm về lối sống của mình. Nếu chuyện ác giả-ác báo lại xảy ra cách nhãn tiền ở đời này, ngay trong quảng đời họ sống, thì chắc chắn những lý lẽ biện minh cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ, bất công…sẽ chẳng có thể tồn tại.
Dưới chân thập giá cũng đã có người thách thức, chế giễu chúa Giêsu: “hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,43). Người công chính duy nhất đáng gọi là công chính để nhờ người mà ơn thứ tha được trao ban cho nhân trần cũng đã thốt lên trong cơn hấp hối: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).
Ngoài một số lý do về niềm tin độc thần, về thái độ thượng tôn lề luật…các Thượng Tế, luật sĩ, biệt phái khi kết án Chúa Giêsu, họ không thể chối cãi lý do chính yếu ở đằng sau mà ngay cả Philatô cũng thừa biết, đó là: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18). Việc họ tìm nhân chứng gian để tố cáo Chúa Giêsu hay tìm cách xách động dân chúng để làm áp lực với Philatô và cắt cử quân linh canh mồ càng nói lên sự bất an của họ về việc họ đã làm (x.Mt 26,60; 28,62-66; Mc 15,11). Thế nhưng sự bất an của “quân vô đạo” dần dà qua đi khi những lời kêu van của người công chính trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng, gãy răng…” (Tv 58,7) chưa thấy được nhậm lời, và chuyện “người công chính sẽ thấy Chúa trả oán, họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân” (Tv 58,11) là chuyện như của tương lai xa vời vợi hay là chuyện một đôi khi hiếm họa do sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Đã và đang có nhiều người sống trong lầm lạc vì Chúa đã không nhổ cỏ lùng ra khỏi lúa tốt (x. Mt 13,24-30). Phút giây hấp hối trên thập giá, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34). Phải chăng lòng từ nhân của Thiên Chúa vô tình đã trở thành cớ cho người ta lầm lạc? Chắc chắn không thể quy kết một cách mạo phạm, bất kính như thế. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Chúa Giêsu không chỉ xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm lạc mà còn mở rộng Trái Tim cực thánh để tuôn ban Thánh Thần để mở mắt, mở lòng họ, giúp họ nhận biết sự thật (Ga 19,34). Viên sĩ quan bách quản hôm ấy đã đón nhận ánh sáng chân lý và tuyên xưng: “Quả thật, ông này là người công chính” (Lc 23,47).
Trước sự mê lầm của những người được xem như là “quân vô đạo” của mọi thời, mọi hoàn cảnh, là Kitô hữu, chúng ta nhiều khi còn phân vân tìm cách hành xử. Có người chủ trương là chấp nhân sự bất công và dâng lời cầu nguyện cho họ. Có người lại đề cao việc vạch trần, tố cáo sự giả dối, gian ác, bất công, để sự bất công, gian dối không còn đất sống. Theo thiển ý, chúng ta cần thực thi cả hai cách thế bằng một trái tim biết mở ra như Trái Tim cực thánh Đấng cứu độ, nghĩa là với một tình yêu đích thực muốn cho người cô thế, bị áp bức bất công được giải phóng và muốn cho cả “quân vô đạo” được giác ngộ, nghĩa là biết nhận ra chân lý, trở về với nẻo ngay mà được cứu độ.
21.Ai muốn làm lớn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 9: 30-37: Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.
Trong ba năm rao giảng của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng thuật lại ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc thương khó Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Mỗi lần đều đặt trong một khung cảnh khác nhau và lời loan báo cũng khác nhau. Nhưng cũng như đại đa số người Do Thái, không hề có ý tưởng về một Vị Cứu Thế bị đau khổ, bị đóng đinh. Các tông đồ cũng vậy, không hiểu và cũng không muốn hiểu. Các ông chỉ mường tượng đến một nước trần gian vật chất, với danh vọng, uy quyền và giầu có. Mỗi lần nghe biết như vậy Chúa buồn lắm. Mà không buồn sao được, đang khi Chúa tiến về Giêrusalem để chịu chết, thì các môn đệ lại tranh cãi xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả, đó là điều khiến Chúa Giêsu hết sức đau lòng. Dù vậy, tự thâm tâm, các môn đệ vẫn biết là mình sai quấy, nên khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ đang cãi nhau về chuyện gì thì các môn đệ không trả lời. Họ im lặng vì xấu hổ.
Nhân dịp này Chúa dạy các ông:”Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người. Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ mọi người”.
Là Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Và Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em. Cử chỉ này tạo ra một tác dụng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời.
Xã hội thời đó không quan tâm đến trẻ em.
Một đứa bé thì chẳng có ảnh hưởng gì, không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp, nó cũng chẳng giúp thêm uy tín cho ai.
Một đứa bé chẳng làm gì cho chúng ta, trái lại nó luôn cần đến cái này, cái kia, người ta phải làm việc này, việc nọ cho nó.
Nó luôn tùy thuộc vào người lớn, luôn trông nhờ người lớn. Hơn nữa chúng chẳng biết nói năng, lý luận gì cả, thậm chí chúng thường bị xua đuổi, khai trừ khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.
Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa những bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói mang đầy ý nghĩa. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi mà các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”.
Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khổ giá, con đường dẫn đến Núi Sọ. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ.
Có câu chuyện kể rằng:
Một hôm, Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:“Có ba điều chuốc oán, ông đã biết chưa?”
Họ Tôn trả lời: “Tôi chưa được biết”.
Trượng Nhân nói: “Tước vị cao người ta ganh, quyền thế lớn người ta ghét, lợi lộc nhiều người ta oán”.
Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói:“Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường, quyền thế tôi càng lớn tôi càng ở khiêm cung, lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho những người chung quanh, như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”.
Đức Khổng Tử cũng đã dạy các đồ đệ của ông như vậy.
Một hôm, Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết: “Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua thường để bên ngai vàng hầu làm gương”.
Khổng Tử liền hỏi: “Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ nước đầy thì lại ngã, có phải là vật này chăng?”
Rồi ngài bảo các đồ đệ múc nước thí nghiệm, thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng dạy: “Thông minh hiểu biết hơn người thì nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn người thì nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có nhiều thì nên giữ bằng cách bố thí và tỏ ra nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
Cũng thế, Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.
Đó là những điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam