Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1363439

NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ

NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ

 

Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Kitô, công dân được chính Vua Kitô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.

Ngay cả Giêsu đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!” Thế thì quả thật Đức Giêsu đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.

Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giêsu trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!

Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giêsu mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Kitô Giêsu. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’ thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.

Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Kitô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Kitô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Kitô Giêsu Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Kitô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!

Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giêsu Kitô nhân ái.

Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!

Lạy Vua Kitô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. Amen.

 

19.Vị vua không ngai vàng

(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Mặc dù có nhiều ý kiến phê phán cách dùng danh xưng “vua” để chỉ Chúa Giêsu, viện lẽ rằng danh xưng này gắn liền với xã hội phong kiến lỗi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục dùng tước hiệu này và tôn vinh long trọng trong ngày Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Nhưng Ngưởi là một vị vua không có ngai vàng. Nói đúng hơn, Người không dùng ngai vàng để biểu dương quyền lực trần thế. Ngai vua của Người là một dụng cụ tử hình, là cây thập giá đã được dựng nên trên đồi Canvê. Như thế, mặc dù dùng danh xưng vua để chỉ Chúa Giêsu, thì khái niệm vua nơi Người vẫn hoàn toàn khác với một vị vua trần thế.

Không phải vô tình mà thánh sử Luca nhấn mạnh đến tấm biển gắn phía trên của thập giá. Tấm biển này mang dòng chữ "Người Này Là Vua Dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và Do Thái. Thánh Gioan còn thêm một chi tiết: nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh gần cổng thành, nơi có đông người qua lại nên rất nhiều người đọc được dòng chữ này (x. Ga 19,20). Tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ của nền văn hóa đương thời; tiếng Latinh là ngôn ngữ của chính trị; tiếng Do Thái là ngôn ngữ của tôn giáo. Tước hiệu vương đế của Đức Giêsu được giới thiệu và tuyên xưng trong mọi lãnh vực, cho cả thế giới, mọi nền văn hóa và ý thức hệ chính trị. Thực tế hôm nay cho thấy điều “tiên tri” này đã được thực hiện: danh Đức Giêsu được kêu cầu bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tin Mừng của Người đã đến với mọi nền văn hóa, thấm nhập và làm cho thăng hoa phát triển.

Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một vị vua nổi tiếng là đạo hạnh của Cựu ước (Bài đọc I). Đó là vua Đavít. Ông là vị vua thứ hai sau Sa-un, kể từ khi Ít-ra-en thiết lập nền quân chủ. Việc Đavít được xức dầu phong vương được coi như một việc làm theo ý của Thiên Chúa. Đavít là hình ảnh của Vị Vua Vũ Trụ là Đức Giêsu là chúng ta tôn vinh hôm nay. Tuy vậy, vương quốc của Đức Giêsu không thu hẹp trong ranh giới của Ít-ra-en như Đavít, nhưng lan rộng khắp thế giới, vì “Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất”. (Bài đọc II).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca làm chúng ta ngỡ ngàng. Đức Giêsu thi hành quyền vương đế của Người không bằng phong độ của một vị vua trần thế, nhưng lại quyền uy gấp bội phần. Một người bị kết án treo trên thập giá, bị chế diễu nhục nhã, đang quằn quại đau đớn và sắp trút hơi thở cuối cùng mà lại tuyên bố sẽ cho người trộm có lòng sám hối được vào vương quốc của mình. Vương quốc ấy được chính Đức Giêsu gọi là thiên đàng, là nơi mọi người đang ước ao và cố gắng đạt được sau khi đã kết thúc cuộc sống ở trần gian. Quả thật đây là một vị vua không giống những vị vua trần thế. Ngai vàng của Người là thập giá. Thập giá là biểu tượng của hy sinh và tự hiến. Trên ngai vàng thập giá đó, Chúa Giêsu đã tỏ cho nhân loại biết tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người mênh mông rộng lớn tới mức nào. Và, đã hai mươi thế kỷ, vương quyền yêu thương của Người đã được một phần lớn nhân loại đón nhận. Đức Giêsu là vua của vương quốc yêu thương, công bình, vĩnh cửu (lời Tiền tụng thánh lễ). Ai sống yêu thương bác ái thì được thuộc về vương quốc của Chúa.

Việc người trộm sám hối được đón nhận vào thiên đàng là bằng chứng của tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Người tín hữu tìm thấy niềm hy vọng nơi nhân vật người trộm này. Mặc dù tội lỗi, anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Anh muốn được vào vương quốc của Người và ước vọng của anh đã được chấp nhận. "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Nhận ra vương quyền của Đức Giêsu và cố gắng sống xứng đáng là công dân trong vương quốc của Người, đó là ơn gọi của người tín hữu. Có những lúc người công dân trong vương quốc của Chúa phải chấp nhận những thiệt thòi hy sinh mất mát để có thể trung thành với Chúa và được hạnh phúc Nước Trời. Nhiều khi chúng ta có khuynh hướng chọn lựa một Đức Giêsu vương hoàng theo kiểu trần gian. Lúc đó, chúng ta chỉ tôn thờ hình ảnh của Người mà chưa chắc được gặp Người.

Việc tôn vinh Đức Giêsu là Vua vào Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ mang một ý nghĩa đặc biệt. Chúng ta được mời gọi hướng về ngày cánh chung, tức là ngày tận thế, ngày tận cùng của lịch sử nhân loại. Khi ấy, mọi quyền bính trần thế sẽ chấm dứt; mọi chia rẽ hận thù và chiến tranh tàn khốc sẽ không còn. Chỉ còn vương quốc yêu thương và an bình tồn tại. Vương quốc ấy là vương quốc của Chúa Giêsu. Vị Vua Giêsu vẫn đang hiện diện trong cuộc sống của Chúng ta. Một vị vua không thực thi quyền thống trị. Người đang tiếp tục đi qua các ngả đường và ngõ xóm, ngồi trên lưng một chú lừa con, như trên đường phố Giêrusalem xưa. Người đang gõ cửa tâm hồn chúng ta, dù chúng ta không đón tiếp Người. Trước mặt chúng ta, Người cũng trần trụi như khi đứng trước Philato và mời gọi chúng ta nhận ra mình thuộc về chân lý. Mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi nhận ra Người và cùng với Người và anh chị em chung tay xây dựng vương quốc của Người ngay từ hôm nay, khởi đi từ những cố gắng rất đơn giản dung dị trong cuộc sống đời thường.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn nhận Chúa là vua của cõi lòng mỗi người chúng con. Xin Chúa thương chúc phúc và trợ lực để chúng con xứng đáng là công dân của Nước Trời. Amen.

 

20.Lời hứa cứu độ – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.

Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.

Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là "Lời nói gỗ - Langue de bois", có nghĩa là không thực và chỉ là những "xảo ngôn", hứa cho qua.

Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu "Vua vũ trụ". Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người "mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.

Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). "Mang lấy ách" là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.

Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).

Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: "Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì "Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được" (Kinh Trông cậy).

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.

 

21.Lạy Chúa, xin nhớ đến con – ĐGH. Phanxicô

(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô - Chúa nhật Lễ Chúa Kitô Vua, 24-11-2013 - Huy Hoàng chuyển ngữ - Nguồn: WHĐ)

Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là kết thúc Năm Đức tin đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI công bố. Giờ đây chúng ta hướng về Đức Bênêđictô với đầy lòng yêu mến và biết ơn vì ngài đã tặng cho chúng ta món quà ấy. Nhờ sáng kiến do Chúa quan phòng này, ngài đã cho chúng ta cơ hội khám phá lại vẻ đẹp của hành trình đức tin đã khởi đầu từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và anh chị em với nhau trong Giáo hội. Mục tiêu tối hậu của cuộc hành trình ấy là chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn, và trong hành trình ấy Chúa Thánh Thần thanh tẩy chúng ta, nâng chúng ta lên và thánh hoá chúng ta, để đưa chúng ta vào cõi phúc lòng chúng ta hằng khát khao.

Tôi xin gửi lời chào thân ái và huynh đệ đến các vị Thượng phụ và Tổng giám mục Trưởng của các Giáo hội Công giáo Đông phương đang hiện diện ở đây. Lời chúc bình an mà tôi sẽ trao đổi với các vị trước hết muốn nói lên rằng Giám mục Roma nhìn nhận các cộng đoàn này đã tuyên xưng Danh Chúa Kitô với một lòng trung thành gương mẫu, thường phải trả giá đắt.

Đồng thời, với cử chỉ này, qua các vị, tôi cũng muốn liên kết với tất cả những Kitô hữu đang sống ở Thánh Địa, ở Syria và trong toàn thế giới Đông phương, xin cho tất cả được ơn bình an và hoà hợp.

Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Chúa Kitô ở trung tâm, Chúa Kitô là trung tâm. Chúa Kitô là trung tâm của tạo thành, trung tâm của dân Người và trung tâm của lịch sử.

1. Thánh Tông đồ Phaolô cho chúng ta một tầm nhìn sâu sắc về vị thế trung tâm của Chúa Giêsu. Ngài trình bày với chúng ta Chúa Kitô là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh: trong Người, nhờ Người và với Người mà muôn vật được tạo thành. Người là trung tâm của mọi vật, là khởi nguyên: Người là Đức Giêsu Kitô, là Chúa. Thiên Chúa đã ban cho Người sự viên mãn, tất cả, để trong Người mọi vật được giao hòa (x. Co 1,12-20). Người là Chúa của tạo thành, Chúa của giao hoà.

Hình ảnh này cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu là trung tâm của tạo thành; và, vì thế thái độ phải có của người tín hữu –nếu muốn là người tín hữu– là phải nhận biết và chấp nhận vị thế trung tâm ấy của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong tư tưởng, trong lời nói và hành động của mình. Khi ấy tư tưởng của chúng ta sẽ là tư tưởng của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; hành động của chúng ta sẽ là hành động của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; lời nói của chúng ta sẽ là lời nói của người Kitô hữu, của Chúa Kitô. Trái lại, khi chúng ta đánh mất trung tâm này, vì đã thay thế bằng điều gì khác, thì sẽ chỉ là tác hại, cho môi trường chung quanh chúng ta và cho chính chúng ta.

2. Không chỉ là trung tâm của tạo thành và trung tâm của giao hoà, Chúa Kitô còn là trung tâm của dân Thiên Chúa. Và ngay hôm nay, Người ở đây, giữa chúng ta. Lúc này Người đang ở đây trong Lời Chúa, Người sẽ ở đây trên bàn thờ, sống động, hiện diện giữa chúng ta là dân của Người. Đó là điều mà bài đọc thứ nhất mô tả cho chúng ta thấy: khi các chi tộc Israel đi tìm Đavit và xức dầu tấn phong ông làm vua Israel trước mặt Chúa (x. 2 Sm 5,1-3). Khi tìm kiếm một vị vua lý tưởng, thực ra con người đang tìm kiếm chính Thiên Chúa: một Thiên Chúa trở nên gần gũi, chấp nhận trở thành người bạn đồng hành của con người, trở nên một người anh em của con người.

Chúa Kitô, hậu duệ của vua Đavit, chính là người "anh em" mà dân Chúa vây quanh, là Đấng chăm sóc dân, chăm sóc tất cả chúng ta, với cái giá phải trả là mạng sống của Người. Trong Người chúng ta nên một; một dân duy nhất được kết hiệp với Người, chúng ta chia sẻ một hành trình duy nhất, một vận mệnh duy nhất.

3. Cuối cùng, Đức Kitô là trung tâm của lịch sử nhân loại và trung tâm của mỗi người. Chúng ta có thể dâng lên Người những vui buồn, hy vọng và khó khăn trong cuộc sống của chúng ta. Khi Chúa Giêsu ở trung tâm, ngay cả những lúc đen tối nhất của cuộc sống chúng ta cũng sẽ bừng sáng. Người ban cho chúng ta hy vọng, như đã xảy ra với người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong khi tất cả những người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt – "Nếu ông là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, thì hãy cứu mình đi và hãy xuống khỏi cây thập tự!" – thì người trộm đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin: "Khi ông vào Nước của ông, xin hãy nhớ đến tôi" (Lc 23,42). Và Chúa Giêsu hứa với anh: "Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với tôi" (c. 43). Chúa Giêsu chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Ngày nay, tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa đang ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con! Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con. Chúa có thể nhớ đến con, vì Chúa là trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa!" Thật đẹp biết bao! Tất cả chúng ta hãy làm điều đó trong ngày hôm nay, mỗi người hãy làm điều đó trong tâm hồn mình, nhiều lần. "Lạy Chúa, Chúa ở trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con".

Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa luôn ban cho nhiều hơn, Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin: bạn xin Người nhớ đến bạn, còn Người lại đưa bạn vào Vương quốc của Người! Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường!

 

22.“... Để làm giá cứu chuộc”

(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

Hôm nay chúng ta tuyên xưng Vương quyền của Chúa Giêsu, một Vương quyền tuyệt đối: Người là Vua Vũ Trụ; Người là Vua của mọi tâm hồn; Người là Vua cứu độ, Vua nắm vận mệnh đời đời của từng người. Lẽ ra, với quyền cao cả như thế, khuôn mặt của Vua Giêsu sẽ đầy uy quyền, sẽ rạng rỡ, sẽ đáng khiếp sợ…

Nhưng không, trong khi tuyên xưng Vương quyền cao cả của Chúa, Hội Thánh lại trình bày khuôn mặt của một vị Vua đầy đau khổ, đầy chấp nhận, dù phải chịu roi đòn, dù phải chịu khổ hình thập giá, dù phải bị giết chết, dù phải cam chịu ruồng bỏ…

Đặc biệt, ngay phần mở đầu bài Tin Mừng, trong khi bị treo trên thánh giá, xung quanh Chúa Giêsu chỉ toàn những lời nhạo báng. Những lời nhạo báng ấy, đại diện cho mọi tầng lớp, mọi thành phần của loài người.

- Trước tiên là sự cười nhạo của các thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: ‘Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!’ ”.

- Lính tráng, chỉ là kẻ thừa lệnh, cũng lên tiếng cười nhạo Chúa: “Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: ‘Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!’ ”.

- Kẻ trộm cướp, dù mang thân phận đầy tội lỗi, cũng không đứng ngoài cuộc: “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ‘Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!’ ”.

Như vậy, với bài Tin Mừng chứa đầy lời nhạo báng, Hội Thánh không nhắm trình bày khuôn mặt Vua của Chúa Giêsu theo kiểu suy nghĩ của người trần thế, nhưng trình bày Vương quyền của Đấng đã từng phán: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20.27-28).

Vì thế, nhìn vào khuôn mặt Vua của Chúa Giêsu, chúng ta không ngần ngại khẳng định: Chúa làm Vua là để phục vụ ơn cứu độ, phục vụ sự sống đời đời của loài người. Người làm Vua không phải để thống trị, không phải để thể hiện quyền bính, nhưng là “phó mạng sống làm giá cứu chuộc” loài người. Chính vì thế, trong kinh Tin Kính, chúng ta xác tín mạnh mẽ: “Vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế” nhập thể làm người, chịu khổ hình, chịu đóng đinh vào thánh giá, chịu chết và sống lại…

Vậy, đứng trước Vương quyền tình yêu của Vua cao cả, chúng ta phải sống làm sao cho xứng hợp?

Trọn bài Tin Mừng, không phải chỉ bao gồm những lời nhạo báng, mà còn có lời thú tội hết sức khiêm nhường của người trộm cùng bị chết treo với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Nếu có ba lời nhạo báng của ba hạng người, thì lời cầu xin ơn tha thứ của người trộm cũng gợi lên trong ta ba tâm tình giúp ta sống, nhằm khả dĩ đáp lại phần nào tình yêu của Đức Vua. Ba tâm tình đó là:

1. Như người trộm, chúng ta hãy chân nhận Vương quyền của Chúa trên cuộc đời mình. Lời cầu nguyện: “Khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” của người trộm, cho thấy anh nhìn nhận Chúa có quyền trên mình. Bằng sự chân nhận nhận Vương quyền của Chúa, chúng ta trung thành và tận tụy từng giây phút của đời mình sống cho Chúa, vươn lên sự thánh thiện và biết thanh luyện nội tâm để luôn luôn được là người sống trong Chúa, sẵn sàng để Chúa làm chủ đời mình.

2. Như người trộm, chúng ta tin tưởng phó mình trong tay Chúa. Lời cầu xin: “Xin nhớ đến tôi” của người trộm, cho thấy anh một lòng tín thác cho Chúa. Cũng vậy, đã là người mang lấy đức tin, chúng ta hãy tin tưởng, hãy trọn vẹn tín thác cho Chúa đời mình, mọi hoàn cảnh xảy ra trong đời mình. Chúng ta không ngần ngại hiến dâng lên Chúa mọi ngày sống, mọi năng lực sống, mọi sức sống, mọi chiều kích sống trong suốt đời mình. Quyết một lòng để Chúa dẫn đưa đến bến bờ bình yên của ơn cứu độ do Chúa thực hiện.

3. Như người trộm, chúng ta chân thành nhìn nhận lỗi lầm của mình để ăn năn chừa tội. Trong lời đối đáp với người đồng bọn, người trộm khẳng khái: “Chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm”. Đó là bài học về lòng sám hối tội lỗi của chúng ta. Hãy mềm lòng để ơn hoán cải Chúa ban có thể thấm vào cuộc đời, thấm vào từng hành động, từng lời ăn tiếng nói, từng biểu hiện sống, từng mối tương quan… của chúng ta. Hãy để ơn hoán cải thấm sâu vào tâm hồn, để chúng ta luôn biết ăn năn tội thật lòng, và không ngần ngại dọn tâm hồn bằng bí tích hòa giải, bằng việc xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.

 

23.Chúa Kitô Vua Tình Yêu – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày’)

Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta". Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả. Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?

Năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài. Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử. Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang. Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc, cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá. Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: "Đây là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất. Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua. Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận. Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:

Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình. Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.

***

Quí vị và các bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài. Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.

Đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa. Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. "Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng".

Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình. Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.

Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi. Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự. Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.

Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người. Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ