Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1363377

Người Mục tử Tốt

Suy Niệm:

1. Người Mục Tử Tốt

Tin Mừng chúng ta vừa nghe  Ðức Yêsu khẳng định rõ rệt: Ngài là người mục tử tốt, tức là người chăn chiên tốt. Chúng ta khoan tìm hiểu ý nghĩa của tĩnh từ "tốt" ở đây. Hãy bắt đầu để ý đến tính cách tuyệt đối của lời khẳng định. Ðức Kitô không xưng mình là " một" mục tử tốt. Câu nói của Người gạt bỏ hẳn mọi mục tử khác sang bên đối diện và đối lập. Mục tử tốt ở đời này chỉ có một mà thôi: đó chính là Người. Mọi kẻ khác chỉ chăn thuê nên không thể tốt được.

Thật ra, muốn hiểu hết ý của Người, co lẽ chúng ta phải trở lại nhiều đoạn sách Cựu Ước và đặc biệt đoạn 34 sách Êzêkiel. Ở đó Yavê Thiên Chúa phàn nàn vì mọi kẻ Người đặt lên chăn dắt dân Người đều đã hà lạm, lợi dụng và làm khổ dân. Hạng mục tử ấy, Người thôi không dùng nữa. Người sẽ lấy lại đàn chiên của Người khỏi tay họ. Và chính Người sẽ đứng ra chăn dắt chiên.

Hôm nay khi tuyên bố mình là người chăn chiên tốt. Ðức Yêsu muốn nói Người chính là vị mục tử mà Êzêkiel đã loan báo và dân Chúa đang trông chờ.

Người quảng diễn: người chăn chiên tốt thí mạng mình vì chiên. Quan niệm này hoàn toàn mới mẻ. Nó thu hút ngay sự chú ý của mọi người. Họ thấy không có một chút tự phụ tự tôn nào trong ý tưởng của Người. Ngược lại, chỉ có một quyết tâm hy sinh phục vụ và phục vụ cho đến chết.

Ðức Yêsu thật rất tâm lý và tài tình... Người phân biệt kẻ chăn thuê và người chăn tốt thật dễ dàng. Và đúng như Người phân tách: kẻ chăn thuê bỏ chạy vì chiên không phải là của hắn.  Nhưng dù sao câu nói của Người cũng còn một nét khó hiểu. Tại sao Người nói đến việc "thí" mạng vì chiên? Tại sao không dùng từ "liều" mạng cho dễ hiểu? Vì người có chiên thấy sói đến chắc vẫn ra sức đánh đuổi sói đi và như thế một phần nào phải liều mạng. Ðó có thể nói là lẽ thường. Nhưng đàng này, Người không nói "liều mạng" và là "thí mạng". Thí mạng là nộp mạng để chết và chết mãi vì chiên thì không hiểu được.

. Thế nên người chăn chiên tốt trước hết phải là chủ chiên và chiên là của người ấy. Người ấy thí mạng vì chiên, kẻ chăn thuê bỏ chạy . chỉ có chủ chiên độc nhất vô nhị mới nghĩ đến chuyện thí mạng vì chiên.

Thế mà Ðức Yêsu xưng mình có khả năng ấy, vì Người là chủ chiên độc đáo. Người là vị mục tử mà Thiên Chúa đã hứa và toàn dân đang trông đợi.   ý tưởng "thí mạng" ở đây có một ý nghĩa rất đặc biệt, mà không quan niệm nào trong xã hội loài người diễn tả được. Muốn hiểu chúng ta phải tin vào lời Ðức Yêsu, là lên tới kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa.

Người đầy lòng xót thương nhân loại bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Hơn nữa chiên của Người là nhân loại còn đang ở trong tay ác thần và tử thần. Ðức Yêsu là mục tử tốt đến, sẽ tự thí mạng chết, để giải thoát kẻ đã chết trong tội lỗi khi Người sống lại, hầu từ nay chiên của Người được sống và sống dồi dào. Ðó là việc Người sẽ làm trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh.

 

2. Các Chủ Chăn Tốt

Phêrô và Yoan hôm ấy bị điệu đến trước tòa án Dothái vì những tội: chữa lành một người què, rồi giảng Danh Ðức Yêsu cho dân, khiến nhiều kẻ nghe lời mà tin. Họ đã thực hiện lời Ðức Yêsu nói trong bài Tin Mừng. Người bảo, những chiên chưa ở trong ràn (các môn đệ), sẽ nghe tiếng Người và sẽ theo Người, khiến Người cũng sẽ là chủ chiên chăn dắt họ.

Nhưng để họ nghe được tiếng Người, đã phải có Phêrô và Yoan được sai đi giảng Lời Chúa. Phải có nhiều tông đồ đi rao giảng nữa thì cả nhân loại mới thật sự trở nên một đàn chiên theo một chủ chiên. Vì thế ngày Ơn Thiên Triệu trước hết là ngày cầu nguyện và hành động để có nhiều, có thêm, thêm nữa số các tông đồ. Con người ngày nay càng không muốn nghe Tin Mừng thì lại càng phải có nhiều người rao giảng để nói mãi, nói hết mọi khía cạnh của Tin Mừng và nói với hết mọi người, mọi nơi, mọi khía cạnh trong đời sống, để không ai có thể nói mình chưa được nghe giảng Tin Mừng.

 

Hai người Phêrô và Yoan hôm nay giảng hùng hồn, dạn dĩ hơn nữa trước tòa Dothái và chư vị đầu mục của dân cùng hàng niên trưởng. Nói rằng họ đang thí mạng vì chiên thật không ngoa. Cứ thử so sánh phiên tòa hôm nay với phiên tòa hôm xử Ðức Yêsu mà xem. Y hệt như nhau. Trước đây người ta hỏi Ðức Yêsu: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Bây giờ người ta cũng hỏi Phêrô và Yoan " bởi quyền phép nào hay nhân danh nào, các ngươi làm các điều ấy". Tòa chỉ chờ họ thưa: nhân danh Yêsu, để khép tội, vì thưa như vậy là coi Yêsu là Thiên Chúa và là rơi vào đúng tội của Ðức Yêsu vì Người đã bị kết án vì xưng mình là Con Thiên Chúa. Nhưng như Ðức Yêsu đã không sợ chết, thì các tông đồ cũng đã không sợ thí mạng. Các ngài tuyên xưng công khai rõ ràng Ðức Yêsu là cứu thế. Vụ án của Người đã được nói trước trong Thánh Kinh, vì Người thật là viên đá đã bị thợ xây ném đi. Nhưng Thiên Chúa đã nhặt lại, tức là đã cho Ðức Yêsu sống lại trở thành viên đá góc xây lên đền thờ Thiên Chúa, khiến chỉ có Danh Người sẽ cứu được tất cả.

Phêrô và Yoan là những tông đồ sẵn sàng thí mạng mình vì danh Ðức Yêsu, để giống như Người và kết hợp với Người trong mầu nhiệm cứu thế. Tiếng của các ngài đã vang ra, đã được nghe, và nhiều người đã tin để trở về ràn chiên Chúa.

Ước gì chúng ta được như vậy. Ðó là lời cầu nguyện thứ hai trong ngày Ơn Thiên Triệu. Chúng ta phải xin Chúa sai thêm thợ gặt đến đồng lúa của Người. Nhưng cũng phải xin Người sai thêm nhiều chủ chăn biết thí mạng vì chiên, có đầy mầu nhiệm Ðức Yêsu ở trong lòng và luôn biết làm chứng cho mầu nhiệm Thánh giá là mầu nhiệm cứu độ.

 

3. Các Chiên Tốt

 Chiên tốt thì phải luôn suy nghĩ về lòng mến của Thiên Chúa đối với mình, để "biết" Người, biết Người yêu ta đến nỗi đã ban Con Một Người thí mạng vì Ta, để ta được gọi là con cái Thiên Chúa. Danh dự này nhỏ lắm sao? Tất cả nếp sống xấu tốt của người tín hữu tùy ở việc biết và nhớ mình là con cái Thiên Chúa.

 khi  ngày Chúa trở lại, chăn tướng con cái Thiên Chúa mới tỏ hiện. Bấy giờ người ta mới thấy chúng ta thật như Chúa.

 Chính Thiên Chúa đã cho chúng ta biết Người khi mạc khải tình yêu thương của Người đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Ðó là sự "biết" thật và là hạnh phúc thật, tuy bây giờ còn che giấu trong mầu nhiệm, nhưng thật sự đã bắt đầu rồi. Chúng ta đừng tin ở một ngộ thuyết tức là một thuyết hiểu biết nào khác.

 Thiên Chúa là Ðấng yêu thương đã sai Con Một Người xuống thế thí mạng Người vì chúng ta và sai các tông đồ của Người đến rao giảng Lời cứu độ để chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong ràn chiên của Người.( Gioan 3:16)

Người chăn chiên tốt lành chính là Ðức Giêsu. Chỉ có Ðức Giêsu là Mục Tử đích thực vì Ngài đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên được an toàn, được tự do, và được sống. Ngài đã chịu đóng đinh và chịu chết cách ô nhục để cứu vớt toàn thể nhân loại. Nhờ tình yêu và yêu tới cùng của vị Mục Tử, đoàn chiên đã được sống và sống dồi dào.

 

Cái chết: bằng chứng tối cao cho tình yêu

Cái chết làm chứng cho chân lý,  cho tình yêu của Chúa Kitô. Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì những người lương thiện. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,6-8). Và trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho chính những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

 Chúa Giêsu dạy cho biết chỉ có tình yêu mới đáng cho ta hy sinh tất cả vì nó. Người dạy ta phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ nhau. Với tình yêu, tất cả sẽ có một ý nghĩa và gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Thánh Âu-tinh nói: “Khi yêu thì không đau khổ, mà nếu có đau khổ thì người ta sẽ yêu thích cả nỗi khổ ấy”. Sách Công vụ Tồng đồ kể lại: các Tồng Đồ bị điệu ra trước tòa, bị đánh đòn, bị cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh, rồi được thả ra. Các ngài ra về, “lòng hân hoan vui mừng” không phải vì được trả tự do nhưng vì  thấy mình đã “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Đối với các Tông Đồ, được chịu khổ vì Đấng mình yêu mến cũng là một ân huệ mà không phải ai cũng có! Tình yêu mạnh hơn sự chết. Có tình yêu –nghĩa là biết mình đang yêu hoặc đang được yêu- thì không sợ gì nữa. Thánh Phaolô đã trải nghiệm mãnh liệt “chân lý” này. Ngài chia sẻ kinh nghiệm ấy trong thư Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm đao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta …” (Rm 8,35-37).

Các con thật sự là môn đệ của Thầy, và các con sẽ nhận ra sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các con" (Ga 8:31). Chúa Giêsu tỏ mình ra như là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng  chỉ cho chúng ta sự thật và ban cho chúng ta tự do đích thật.
Sự thật là ao ước của con người. Tìm kiếm sự thật luôn luôn đòi hỏi phải có tự do đích thực. Nhiều người,  như quan Phongxiô Philatô, mỉa mai ngay cả khả năng có thể nhận biết sự thật (x. Ga 18:38), trong khi bác bỏ khả năng nhận ra sự thật hay phủ nhận rằng chẳng tồn tại một chân lý nào có giá trị chung cho tất cả mọi người. Thái độ này, như trong trường hợp của thuyết hoài nghi và thuyết tương đối, thay đổi con tim họ, làm cho họ hững hờ, hay dao động, xa cách những người khác và đóng kín. Có quá nhiều người, giống như viên tổng đốc La Mã, đã rửa tay và để dòng chảy của lịch sử trôi qua mà không có một lập trường nào.

Mặt khác, có những người lý giải sai lầm việc tìm kiếm sự thật, dẫn họ đến thái độ phi lý và cuồng tín, họ đóng mình trong "sự thật của họ", và cố gắng áp đặt nó trên người khác. Đây là trường hợp của các thầy thông giáo mù lòa, khi thấy Chúa Giêsu bị đánh đập tàn bạo và đẫm máu, còn hét toáng lên, "đóng đinh nó đi!" (X. Ga 19:06). Bất cứ ai hành động phi lý không thể trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu. Đức tin và lý trí là cần thiết và bổ sung cho nhau trong việc tìm kiếm chân lý. Thiên Chúa tạo ra con người với một ơn gọi bẩm sinh là tìm kiếm sự thật và vì thế Ngài ban cho con người lý trí. Chắc chắn rằng đức tin Kitô được đề cao không phải vì sự phi lý nhưng chính vì niềm khao khát chân lý. Mỗi người nam nữ phải tìm kiếm sự thật và lựa chọn sự thật khi họ tìm được, thậm chí nếu có phải mất mạng sống mình đi chăng nữa.


Kitô giáo, khi đề cao những giá trị xiển dương đạo đức, không áp đặt, nhưng đề xuất lời mời gọi của Chúa Kitô để nhận biết sự thật giải thoát chúng ta. Người tín hữu được mời gọi để đưa ra sự thật cho những người đương thời với mình, như Chúa Kitô đã làm, ngay cả trước bóng đen chập chờn của khước từ và Thánh Giá. Cuộc gặp gỡ cá vị với Đấng là Chân Lý thúc đẩy chúng tôi chia sẻ kho tàng này với người khác, đặc biệt qua chứng tá của mình.

Anh chị em thân mến, đừng ngần ngại theo Chúa Giêsu Kitô. Trong Người chúng ta tìm thấy sự thật về Thiên Chúa và về nhân loại. Ngài giúp chúng ta vượt qua tính ích kỷ của mình,
 Chúa Giêsu Kitô là con đường, là sự thật và là sự sống. Trong Người tất cả mọi người sẽ tìm thấy tự do hoàn toàn, sẽ thấy ánh sáng để hiểu thực tại một cách sâu sắc nhất và chuyển hóa nó bằng sức mạnh canh tân của tình yêu.

Giáo Hội tồn tại là để chia sẻ cho những người khác những gì Giáo Hội sở hữu, đó không gì khác hơn là Chúa Kitô, là niềm hy vọng vinh quang của chúng ta (x. Col 1:27).


Khi
chúng ta đề cao nhân quyền , chúng ta không yêu cầu bất kỳ ưu đãi đặc biệt nào cho mình. chúng ta chỉ muốn được trung thành với lệnh truyền của Đấng thiêng liêng sáng lập ra mình, với ý thức rằng, nơi đâu Chúa Kitô hiện diện, nơi đó chúng ta trở nên nhân bản hơn và tình nhân loại của chúng ta trở nên chân thực. Đây là lý do tại sao chúng ta tìm kiếm cơ hội để đưa ra chứng tá qua lời rao truyền và giảng dạy của mình, sứ mạng mà Chúa đã ủy thác cho chúng ta chúng ta không bao giờ được xao nhãng.

Chứng từ của các vị tử đạo

Sau Chúa Giêsu, những kẻ đã làm chứng “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp”, đó là các vị tử đạo.  Ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, người Kitô hữu lại phải trải qua cuộc thử thách rất nặng nề của bắt bớ và tử đạo.

Có một đặc điểm phân biệt những truyện tử đạo chân chính với những truyện mang tính “ hư truyền” người ta “chế biến” ra sau những cuộc bách hại với những mục đích khác nhau, đó là: trong những truyện chân chính, không thấy dấu vết “bút chiến” nào chống lại những kẻ bách hại; tác giả chỉ chú tâm vào hành động anh dũng của các vị tử đạo, chứ không để ý tới sự tàn bạo của các quan tòa và bọn lý hình mà lên án. Thánh Cyprianô tử đạo đã đi tới chỗ truyền cho người nhà biếu tên đao phủ sắp chém đầu ngài hai mươi lăm đồng tiền vàng. Các thánh tử đạo quả xứng là môn đệ của Đấng đã cầu nguyện trước khi chết: “Lạy Cha, xin tha cho họ …”

Tôi nhớ đã đọc một lời tâm sự của Đức Hồng Y  Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói đại ý rằng ngài rất ái ngại mỗi khi có nhà báo đến phỏng vấn, vì họ thường tìm mọi cách để ngài “nói xấu” về những kẻ bắt bớ giam cầm ngài. Một bằng chứng về sự thánh thiện chân thật của Đức Hồng Y chính là ở chỗ ngài luôn luôn giữ một tâm trạng bình an, hiền hòa và quảng đại với hết mọi người kể cả những kẻ thù nghịch với ngài.

Và làm sao chúng ta không khâm phục một “chứng từ cao đẹp” khác của một vị tử đạo nổi tiếng ngày nay, ông Shahbaz Bhatti, người Pakistan? Ông là người công giáo duy nhất trong chính phủ Hồi giáo Pakistan, với chức vụ bộ trưởng phụ trách những cộng đồng người thiểu số. Ông đề nghị bãi bỏ những đạo luật chống báng bổ (anti-blasphemy laws) và công khai bênh vực Asia Bibi, một người Kitô hữu mẹ gia đình bị kết án tử hình theo chính đạo luật bất công này. Trong bản Di chúc của mình, ông viết những lời khẳng khái sau đây:

“Những nhân vật cao cấp trong chính quyền đã đề nghị với tôi và họ yêu cầu tôi từ bỏ cuộc chiến đấu, nhưng tôi đã luôn luôn từ chối, ngay cả khi biết rằng tôi đang liều mất mạng. Tôi không tìm kiếm sự nổi danh, tôi không muốn những vị trí quyền lực. Tôi chỉ muốn một chỗ dưới chân Chúa Giêsu. Tôi muốn rằng đời sống tôi, tính tình tôi, các hành động của tôi lên tiếng thay cho tôi và nói rằng tôi đang đi theo Chúa Giêsu Kitô. Ước muốn này thật mạnh mẽ trong tôi đến nỗi tôi coi mình là rất may mắn nếu –trong nỗ lực của tôi và trong cuộc chiến đấu của tôi nhằm giúp người thiếu thốn, kẻ khó nghèo, người Kitô hữu bị bắt bớ của Pakistan – tôi được Chúa Giêsu Kitô vui lòng chấp nhận hiến lễ đời tôi. Tôi muốn sống cho Chúa Kitô và tôi muốn chết vì Người”.

Ngày 2 tháng 3 năm 2011, ông đã bị một nhóm khủng bố thuộc tổ chức Al-Quêđa ám sát. Một năm sau Giáo Hội Pakistan đã nhất trí xin phong thánh cho vị tử đạo của mình.

Mục tử tốt là mục tử có tinh thần hy sinh và phục vụ một cách vui tươi và vô điều kiện: “Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45). Mục tử tốt chính là hiện thân của Đức Kitô, nơi đó con người sẽ dễ dàng đón nhận và gặp gỡ Thiên chúa .

  Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiến thân cứu chuộc chúng con, cho chúng con được sống. Chúa yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho chúng con, dù chúng con bất xứng với ân huệ cao quý ấy. Chúng con đã từ bỏ Chúa, nghe theo tiếng gọi của danh vọng, tiền của, giàu sang. Xin cho chúng con luôn ý thức: chúng con là môn đệ, là chiên thuộc về Chúa. Chúng con mau mắn nghe theo tiếng Chúa đang hướng dẫn từng người chúng con trong cuộc sống. Amen.

 
Nguồn : gxnl 

home Mục lục Lưu trữ