Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 39

Tổng truy cập: 1361574

NHÓM MƯỜI HAI

NHÓM MƯỜI HAI

 

“Đây là tên của mười hai tông đồ...”. Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philipphê, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.

Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo Hội “tông truyền”.

 Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa, được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chứng, chúng ta mới biết được Con Người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nào khác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa-Giêsu-con-người đến Chúa-Giêsu-Thiên-Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài đã hành động theo cách này, Ngài đã nói...

Cũng nhờ nhóm Mười Hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo Hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi Chúa nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo Hội của Chúa Kitô cũng là Giáo Hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo Hội tông truyền”.

Lập tức, Chúa Giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin Mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.

Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chúa Giêsu thường lui tới với chúng ta cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin Mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo Hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”

Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo Hội, về Giáo Hoàng, về các Giám Mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem xét vấn đề... cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo Hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo Hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.

Khi tình yêu Giáo Hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.

 

11.Chú giải của Giáo Hoàng học viện Đà Lạt

SỨ MỆNH CỦA NHÓM MƯỜI HAI

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ": khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu... Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu Ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8-13; Hs 2, 2-3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).

"Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ "bơ phờ", "yếu liệt", "nằm sòng sãi", như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu Ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: “Môisen thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ". Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn "bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1V 22, 17; Gr 23, 1-2; 50, 6; Ed 34, 1-10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16.24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16,12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Êdêkien loan báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…

"Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu Ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v...). Trong Tân Ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giêsu và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế" (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31-46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Kitô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14-19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Kitô (Mt 10, 13-16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1-8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.

Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: "Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ" (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.

“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn": Ở đây Matthêu dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công việc và thành quả giống như của Người và Ngài củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người.

"Mười hai sứ đồ ": Đây là lần duy nhất Matthêu dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ "Nhóm mười hai" (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông viết "Mười hai môn đồ" (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay “các môn đồ" (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v...), vì hơn Maccô và Luca, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ "sứ đồ" theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm Mười Hai và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.

“Đừng lên đường đến các dân ngoại": Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói "thành của người Samari" để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Matthêu; và bởi thế ta hiểu được rằng Maccô và Luca đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Kitô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: “các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân" (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho "con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Matthêu đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.

“Hãy loan báo... hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v...). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11...) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Matthêu còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ Thiên sai, cảm hứng từ Isaia, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).

Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30-36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20-28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15-18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1-10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32-35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36-42; 20, 7-12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2-12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người, cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ còn "một đàn chiên, một chủ chiên" (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm Mười Hai, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc. Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài!

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó ta được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.

2) Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất ("Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó", St 1, 28).

3) Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh...). Tuy nhiên Ngài ưu tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học... Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.

4) Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Kitô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XXI.

5) Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.

 

12.Chọn và sai đi

Tuần tự và khéo léo Matthêu khai mở câu chuyện về Chúa Giêsu. Trong lễ rửa do tay ông Gioan, ông cho thấy Chúa Giêsu chấp nhận công tác của Ngài. Lúc Chúa chịu cám dỗ, Matthêu cho thấy phương pháp Ngài xử dụng để thi hành công tác. Trong Bài Giảng Trên Núi, ta nghe lời khôn ngoan của Chúa Giêsu. Trong đoạn 8, ta thấy việc quyền năng. Trong đoạn 9, sự chống đối ngày càng gia tăng. Bây giờ chúng ta thấy Chúa chọn lựa người của Ngài. Một thủ lãnh sắp sửa dấn thân vào một việc quan trọng thì điều trước tiên cần làm là lựa chọn bộ tham mưu. Hiệu quả trước mắt và sự thành công tương lai của công trình đều tùy thuộc vào họ. Ở đây Chúa Giêsu lựa chọn ban tham mưu của mình, chọn những cánh tay mặt, những người sẽ giúp đỡ Ngài lúc còn ở thế gian và sẽ tiếp tục công tác của Ngài khi Ngài lìa thế gian để trở về nơi vinh quang.

Có hai sự kiện về những người này khiến ta chú ý ngay:

1. Họ là những người tầm thường:

Họ không có của cải, không học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường. Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, mà cũng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Chúa Giêsu lựa chọn những người này không những vì họ thế nào nhưng còn vì họ có thể trở nên như thế nào dưới ảnh hưởng và quyền năng Ngài. Không ai nên nghĩ mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để xử dụng trong việc trọng đại.

2. Họ là một nhóm ô hợp dị thường nhất:

Có Matthêu, người thu thuế. Tất cả mọi người đều coi Matthêu là người phản quốc, như một người làm tay sai cho chủ nhân chiếm xứ mình để cầu lợi, trái ngược với một người ái quốc thương dân. Cùng với Matthêu có Simon, Luca (6,16) gọi ông là Simon Dêlốt, tức nhiệt thành. Sử gia Giosephus gọi những người Dêlốt (cuồng tín nhiệt tâm này) là đảng thứ bốn của người Do thái (ba đảng kia là: Biệt phái, Xađuxê và Khổ hạnh (Esennes). Ông nói rằng họ có một lòng tự do không gì sánh nổi, vì họ nói Thiên Chúa là Đấng cai trị và Chúa của họ. Họ chuẩn bị đương đầu với mọi cái chết cho xứ sở và không hề chùn bước khi thấy người thân yêu chết trong cuộc đấu tranh dành tự do. Họ từ chối, không chịu tôn tặng một người nào trên thế giới danh hiệu là vua. Họ có một quyết tâm chịu bất cứ sự đau đớn nào, họ chuẩn bị để thi hành những vụ sát nhân bí mật để tìm cách loại bỏ quyền lực ngoại bang khỏi xứ họ. Nếu Simon, người cuồng tín gặp Matthêu ở một nơi nào khác ngoài tập thể của Chúa Giêsu, thì chắc chắn ông đã đâm cho một nhát dao găm rồi. Tại đây có một chân lý trọng đại là những người thù ghét lẫn nhau lại có thể thương yêu lẫn nhau khi cả hai cùng thương yêu Chúa Giêsu. Nhiều khi tôn giáo là cớ chia rẽ người đời, nhưng trong sự hiện diện của Chúa Giêsu thì họ đem họ lại với nhau, những con người trước đây chia rẽ vì không có Ngài.

Để chung ba bản thuật ký về sự kêu gọi mười hai Tông Đồ, chúng ta sẽ thấy vài điểm nổi bật:

a) Ngài lựa chọn họ:

Luca (6,13) nói Chúa Giêsu gọi các kẻ theo Ngài rồi chọn mười hai người trong họ. Dường như mắt Chúa rảo quanh đám đông đi theo Ngài và một nhóm nhỏ bằng lòng ở lại với Ngài khi quần chúng đã tan đi, dường như lúc nào Ngài cũng đang tìm kiếm những người Ngài có thể giao công tác cho. Có người đã nói: "Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm những bàn tay để xử dụng" Ngài luôn luôn phán: "Ta sẽ sai ai? Ai sẽ đi cho chúng ta?" (Is 6,8). Có nhiều công tác trong Nước Trời, công tác cho người đi ra, công tác cho người ở lại nhà, công tác cho người phải xử dụng đôi tay, công tác cho người phải xử dụng tâm trí, công tác mọi người đều thấy và công tác không ai thấy được. Đôi mắt của Chúa Giêsu luôn luôn tìm trong đám đông xem có người nào sẽ làm công tác của Ngài.

b) Chúa kêu gọi họ:

Chúa Giêsu không ép buộc ai làm công việc cho Ngài, Ngài hiến công việc cho họ, nhưng không ép buộc họ. Ngài mời gọi, chứ không chưng dụng. Ngài muốn có những người tình nguyện. Mỗi người được hoàn toàn tự do trung thành hay không. Lời mời gọi đều đạt đến mọi người, ai muốn chấp nhận hoặc từ chối tùy ý.

c) Ngài chỉ định họ:

Chỉ định một người vào một chức vụ. Chúa Giêsu giống như một ông vua chỉ định người làm bộ trưởng, như vị tướng tư lệnh giao công tác cho cấp chỉ huy. Phục vụ Chúa không phải là một tình cờ may rủi mà là được chỉ định chính xác vào chức vụ. Người ta rất hãnh diện nếu được vua thế gian chỉ định vào một công tác. huống chi được chỉ định bởi một Vua các vua thì còn đáng hãnh diện hơn biết bao!

d) Những người này được chỉ định trong số các môn đệ:

Môn đệ là kẻ học hỏi. Người Chúa Giêsu cần và ưa thích là người sẵn sàng học hỏi. Một tâm trí khép kín không chịu học hỏi không thể nào phục vụ Chúa. Tôi tớ của Chúa Giêsu phải sẵn sàng học hỏi thêm mỗi ngày, mỗi ngày phải bước gần Chúa Giêsu và Thiên Chúa hơn.

đ) Ngài chọn để họ ở với Ngài:

Nếu họ phải làm công việc Ngài trong thế gian thì họ phải sống trong sự hiện diện của Ngài trước khi đi vào thế gian, họ phải đi từ sự hiện diện của Chúa Giêsu đến sự hiện diện của con người. Nhiều khi trong những sinh hoạt phức tạp của Hội Thánh hiện đại, chúng ta bận rộn với việc điều hành cốt để cho guồng máy quay đều, nhưng chúng ta lại quên rằng tất cả những việc này không quan hệ, nếu không được thực hiện từ những người đã ở với Chúa Giêsu trước khi đến với loài người.

e) Họ được gọi là Tông Đồ (Sứ Đồ):

Là người được sai đi. Chữ dùng để chỉ một phái viên, một đại sứ. Kitô hữu là sứ giả của Chúa Giêsu đến với loài người. Họ bước vào sự hiện diện của Chúa Giêsu để có thể từ đó đến với loài người, mang theo vẻ đẹp của Chúa Giêsu.

g) Họ được gọi là người rao giảng:

Họ được lệnh phải giảng đạo. Người kitô hữu là người rao truyền Chúa Giêsu, đó là lý do tại sao phải ở lại với Chúa Giêsu. Sứ giả không truyền đạt ý của mình, nhưng đem một sứ điệp thiêng liêng chắc thật từ Chúa Giêsu. Người đó không thể mang sứ điệp đó nếu trước hết không nhận được từ việc ở với Ngài.

 

13.Nhóm Mười Hai

“Đây là tên của mười hai tông đồ...”. Chúng ta biết bồn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philip, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.

Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo hội “tông truyền”.

 Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chừng, chúng ta mới biết được con người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nàokhác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa Giêsu con người đến Chúa Giêsu Thiên Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài  đã hành động theo cách này, Ngài đã nói...

Cũng nhờ nhóm mười hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi chủ nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo hội của Chúa Kitô cũng là Giáo hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo hội tông truyền”.

Lập tức, Chúa giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.

Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chuá Giêsu thường lui tới với chúng a cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”

Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo hội, về Giáo hoàng, về các Giám mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem  xét vấn đề... cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.

Khi tình yêu Giáo hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.

 

home Mục lục Lưu trữ