Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1359466
NHỮNG ANH HÙNG ĐẤT VIỆT
NHỮNG ANH HÙNG ĐẤT VIỆT
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, Giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.
8.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca ngợi cuộc sống chứng tá của những người công chính bị bách hại và những ân phúc mà họ được hưởng trước thánh nhan Thiên Chúa.
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-25
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Thánh I-nê-đê, một phụ nữ quê mùa. Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh mới 16 tuổi. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-ti-nô: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa” (Trích từ tập san “Công Giáo và Dân Tộc”, Năm Phụng Vụ 93).
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng, kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ.
Trước đó, vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào. Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Trái lại, niềm tin vào cuộc sống mai hậu thì quá bi quan: tất cả mọi người, công chính hay gian ác, khi từ giả cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Thật ra, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với kẻ gian ác ở bên kia nấm mồ. Các Thánh Vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73). Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu lộ diện. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử vì đạo tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia cái chết (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn triển khai xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử linh hồn của người Hy lạp củng cố niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm ẩn hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
1. Quan niệm sai lầm về con người
Trước hết, tác giả bài bác quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng; khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như sương khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho đồng bào của mình, họ đang bị nền văn hóa ngoại giáo chung quanh hấp dẫn lôi cuốn. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và của các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật này, tác giả trình bày quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
2. Quan niệm đích thật về con người (3: 1-6)
Ở trung tâm lập luận của mình, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày điều cốt yếu nhất liên quan đến con người được Thiên Chúa sáng tạo nên “trường tồn bất diệt” dựa trên sách Sáng Thế (1: 27):
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).
Từ đó, tác giả sách Khôn Ngoan khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:
“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa;
và chẳng cự hình nào động tới được nữa.
Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi;
khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt,
nhưng thực ra họ đang hưởng an bình.
Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt,
nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (3: 1-4).
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết thuyết nhị nguyên của Hy-lạp. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất diệt trong thân xác hư hoại, nhưng là “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện các tôi trung của Thiên Chúa để cuộc đời của họ trở thành “của lễ toàn thiêu”:
“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút,
họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ
và thấy họ xứng đáng với Người
Người đã tinh luyện họ
như người ta luyện vàng trong lò lửa
và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (3: 5-6).
3. Vinh quang chung cuộc (3: 7-8)
Ở đây, tác giả mô tả vinh quang mà người công chính được hưởng vào ngày cánh chung:
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm,
họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7)
“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như lời di chúc của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài.
Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc đó, những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên sự ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo:
“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.
Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8).
Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và tác giả sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng kiểu nói tương tự để xác định vị thế của các môn đệ Ngài trong vương quốc Nước Trời: “Khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19: 28).
4. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm (3: 9)
Niềm hy vọng lớn lao này căn cứ trên tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, ân phúc và từ tâm này mà những người công chính sống:
“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật;
những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương
và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc,
và thương xót những ai được Người tuyển chọn” (3: 9).
Lời kết thúc của Bài Đọc I này được viết cách Tin Mừng đến một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại cách ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, gây nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy này, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử này không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ cho mình là “thông thái”, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng thánh nhân đã rao giảng cho họ không bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với những điềm thiêng dấu lạ người Do thái mong đợi và sự khôn ngoan người Hy lạp tìm kiếm.
Người Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được; đó là điều mà tất cả hệ thống triết học đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ hình trên thập giá. Ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái này khai trừ và bách hại.
Còn đối với người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân đã cố thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Thập Giá không là một diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đưa ra một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh một hình ảnh độc nhất: “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, trích từ diễn từ về sứ vụ sai đi của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 10: 5-42), có thể được phân chia như sau: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23) và kết luận (10: 24-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21)
Khi căn dặn các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời”, Đức Giê-su không khuyên họ trốn tránh “người đời”, nhưng trong những cuộc giao tiếp với người đời, họ nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Các môn đệ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Ở đây, “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ” (10: 17).
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, trước các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki-tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Ki-tô và Nước Trời. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công khai vừa chính trị. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Trong giờ đó, họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thánh Thần để trợ giúp họ như Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12). Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến ơn phù trợ này loại bỏ sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “chính anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng ở trong họ và bởi chính họ nữa.
2. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
Đối xứng với đoạn văn 10: 17-20 ở trên, đoạn văn 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết vì tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài, nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23)
Người Ki-tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn cho đến cùng. Huấn thị này gợi nhớ cuộc bách hại giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem sau cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô. Sách Công Vụ ghi nhận rằng những người này phải tản mác khắp nơi, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đó (Cv 8: 4).
4. Kết luận (10: 24-25)
Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị kết án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh, nhưng căn nguyên khác nhau giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho người môn đệ sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến (x. 10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời này (x. 10: 18).
9.Tử vì Đạo ngày hôm nay - AM Trần Bình An
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1644, Thầy Andrê Phú Yên chịu tử vì đạo, đã làm phấn khởi những tín hữu sốt sắng ở Qui Nhơn. Ông Trùm An tôn Ngữ vội vàng lên gặp Cha Đắc Lộ, để hỏi xem phải có thái độ nào trong hoàn cảnh tương tự. Cha khuyên ông trở về khích lệ giáo dân sẵn sàng và can đảm trong cuộc chiến cam go của đức tin. Mấy ngày sau, quan trấn thủ sai quan án đến ra lệnh tập trung tất cả những người có đạo. Nội trong một ngày có 700 người trình diện. Thay vì làm cho dân chúng khiếp sợ, chính quan và lính thấy đám đông thì bối rối, chỉ chọn lấy 36 người trói lại, để giải về cho ông nghè Bộ. Ông nghè liền hạch hỏi: “Các ngươi muốn gì?” Tất cả thưa lại: “Chúng tôi muốn chết, để được sống đời đời, như lời Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Được chết vì Ngài là một vinh dự!”
Trong số 36 người có một ông nhà giầu. Khi ra trước sân phủ, quá sợ hãi, nên ông đã chối đạo. Nhưng sự hèn nhát của ông không làm nao núng 35 người còn lại. Quan trấn không dám vượt quá thẩm quyền, nên nói sẽ chọn ra 6 người, sẽ đánh đòn trước mặt những người khác để làm gương, nhưng không liệt kê những ai. Tối hôm đó, mọi người xưng tội, rước lễ, và ai cũng tranh cho được lọt vào tốp 6 người. Kẻ thì nói mình là tín hữu lâu đời, người khác lại nói mình không quan trọng cho đạo, nên sẵn sàng chịu chết. Trong số đó, có hai cha con cũng tranh nhau. Người cha nói rất tiếc phải tranh với con, để không thua lòng can đảm của con, mặc dù sức khỏe đã yếu kém. Người con thưa lại rằng, mình không quan trọng và không phải lo cho gia đình như cha. Quan án được lệnh đến nhà giam chọn 6 người, trong đó đứng đầu là Ông Trùm Antôn Ngữ. Tất cả 6 người bị đóng gông, mà Cha Đắc Lộ hay gọi là Thánh giá của người Nam Việt, hiên ngang theo lính ra phủ đường, 29 người được tự do cũng theo ra. Những người được chọn vui vẻ hớn hở, vì biết rằng mình sẽ được chết vì Đức Kitô. Nhưng tới phủ đường, quan chỉ ra lệnh đánh đòn mỗi người ít roi. Bản án qúa nhẹ làm họ sửng sốt. Lính lại đánh có 4, 5 roi nhẹ, càng làm họ càng tiếc, mất cơ hội chịu khổ vì Chúa. Cả 6 người được thả về, liền tìm đến Cha Đắc Lộ phàn nàn, Cha đã khuyên họ rằng, lòng ước muốn chịu chết vì Chúa cũng rất đáng kể, và đây mới chỉ là thử thách đầu tiên, tập luyện cho những cuộc thử thách lớn sau này, mà họ sẽ có dịp minh chứng lòng trung thành trọn vẹn. (Lm Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng)
Nhân dịp tiên báo cuộc khổ nạn của Người sắp đến, Đức Giêsu phán dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24) Nay nhiều hạt khác sinh ra tới khoảng 7 triệu. Không có thống kê chính xác về số lượng người Công Giáo bị bách hại từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Nhưng trong 400 năm hiện diện tại Việt Nam, đạo Công giáo đã chịu sát hại ròng rã suốt 300 năm, hàng chục vạn tín hữu đã chịu hy sinh. Giáo Hội dùng từ Hy lạp là Martus, Marturos, tiếng La tinh là Martyr, Martyris, tiếng Anh và Pháp đều là Martyr, để chỉ những tín hữu được vinh phúc Tử Vì Đạo. Martus theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là người chứng, người làm chứng, chứng nhân.
Hôm nay, ngoài những đất nước độc tài chuyên chế, thì chẳng còn cảnh thảm sát cấm đạo tàn khốc như xưa. Tuy nhiên, người Kitô hữu chân thành thực hành Lời Chúa, vẫn phải chịu bách hại bằng những hình thức tinh vi và đau đớn không kém, tuy chẳng phải máu chảy đầu rơi. Do vậy, tín hữu Kitô làm chứng nhân vẫn đang chịu tử vì đạo, chịu chết đi tính xác thịt, chết đi thói hư thế gian và chết đi những cám dỗ ma quỷ.
Chết đi tính xác thịt
Nhu cầu tự nhiên của con người sẽ trở nên bất tận, bao lâu còn cung phụng cho thân xác mau hư mòn theo năm tháng. Từ cái ăn, cái mặc cho đến tiện nghi sinh hoạt sẽ chẳng bao giờ là đủ thỏa mãn, nếu cứ mãi o bế, chiều chuộng ngũ quan, khao khát, đòi hỏi vất chất, phương tiện đầy đủ hơn, tốt hơn, đẹp hơn, nhiều hơn, mới hơn, tinh vi hơn, sang trọng hơn. Vậy nếu biết dừng lại, từ bỏ đi những ham muốn bản năng là chịu chết đi tính xác thịt. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối.“(Ep 4, 22)
Chết đi thói thế gian
Can đảm lội ngược dòng đời, Kitô hữu cũng được chịu phúc tử vì đạo, vì dám chống lại văn minh sự chết, chống lại khuynh hướng vô thần, mà gieo vãi văn minh tình thương đến mọi người, mọi nơi. Mặc cho thiên hạ tôn thờ bái vật, bò vàng, mê đắm hưởng lạc, ăn gian nói dối, lừa đảo kiếm chác, mặc cho thiên hạ đề cao và tôn thờ cá nhân chủ nghĩa. Thánh Giacôbê đã khuyên nhủ trong “Thư Chung” với toàn thể Kitô hữu: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha là…giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1, 27)
Chết đi cám dỗ
Cái bả của cải, giàu sang, phú quý, quyền năng luôn là những cám dỗ day dứt, tiềm tàng, ẩn giấu, sâu kín, triền miên, trong lòng dạ mỗi người. “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn, độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong.“ (1Tm 6, 9)
Nhưng cám dỗ nặng nề, kín đáo và dai dẳng nhất vẫn là vị kỷ, kiêu ngạo, tự cao tự đại, với Thiên Chúa và tha nhân. Cho nên điều kiện tiên quyết theo Chúa, vẫn là phải từ bỏ bản thân, xóa bỏ bản ngã, cái tôi ích kỷ trước mắt mọi người, như Đức Giêsu đã chân tình mời gọi: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)
Chư hiển thánh Tử Vì Đạo đã toàn tâm, toàn ý, vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu, mà từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống, để sẵn sàng vác thập gía, chịu đủ khổ hình, roi vọt, tù đầy, lăng mạ, cuối cùng chịu chết đau đớn, được vinh hạnh thông phần vào cuộc tử nạn của Đức Kitô.
“Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Ngài, và cũng có một số người quyết giết chết Ngài. Sao con muốn mọi người yêu con? Sao con nao núng khi có người ghét con?” (Đườg Hy Vọng, số 692)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người luôn ban Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con ý thức thân phận thấp hèn, bé mọn trước Thiên Chúa và tha nhân, để chúng con sẵn sàng chết đi mọi thói hư, nếp xấu, mọi cám dỗ phù phiếm, từ bỏ bản thân, chấp nhận gánh vác bổn phận, trách nhiệm nặng nề hằng ngày mà hoàn toàn theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn dạy dỗ, nhắc nhở chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, bác ái, yêu Chúa và yêu người, luôn sẵn sàng chịu chết đi, để làm chứng nhân cho Đức Kitô. Amen.
10.Chết trong tình yêu Thiên Chúa
Mt 10, 17 - 22
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh - lợi - thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình...kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là "phù vân", như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ "Thập Giá' chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo". Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác".
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng "Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô" (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể "xử trảm" chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không... đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh , chúng ta cũng xác tín "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Amen.
11.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Mt 10: 17-22: Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 vị tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ Tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo Dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
- Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc.
Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt… nhưng với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man, cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Quả thật trên đây là những tấm gương anh hùng của các thánh tử đạo Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta luôn phải nhớ rằng tử đạo là một ơn đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho một ai. Đã là Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Làm chứng một cách âm thầm nhưng không kém phần anh hùng như trường hợp của một giáo lý viên sau đây:
Vào năm 1934, cha Alexis đến truyền giáo tại vùng Đông Bắc Lybia. Nơi đây, cha được một sự cộng tác rất nhiệt thành của một giáo lý viên tên là Joan Cardina. Cardina được gởi tới một làng ngoại giáo. Ban đầu anh bị dân làng chống đối, nhất là các thầy phù thủy hầu như lúc nào cũng như muốn tìm cách giết anh cho bằng được. Cuối cùng anh bị dân làng trục xuất, thế là anh phải cất một cái chòi ở ven làng. Những người có thiện cảm nhất với anh cũng không ai dám ghé thăm. Thế nhưng anh vẫn can đảm tự mình làm lụng vất vả, kiên trì cầu nguyện, đồng thời sẵn sàng chia sẻ phần thu họach ít ỏi với những người nghèo đói, cứu giúp họ thóat khỏi những cơn bệnh nguy tử bằng một vài lọai cây thuốc trong rừng. Có lần, một ông già làng đến gặp anh và nói: "tại ao anh không chịu đi nơi khác, anh coi đấy, chẳng ai ưa anh, cũng chẳng ai muốn nghe cái thứ tôn giáo của anh”.
Cardina ôn tồn trả lời: "Thiên Chúa đã sai tôi đến đây, Ngài đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc mọi người chúng ta, vì thế tôi cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để các ông nhận biết Ngài. Tôi sẽ không rời bỏ nơi này bao lâu chưa có ai trở thành người Kitô hữu”. Thế rồi dân làng đành cho anh ở lì. Mấy năm sau, Cardina bị bệnh sốt ác tính và anh đã qua đời tại đây. Sau khi anh qua đời, dân làng cảm phục trước sự kiên trì của anh, đã tự ý đi tìm chỗ học đạo. Thế là một số giáo lý viên được gởi đến và chỉ sau một thời gian ngắn cả làng đều theo đạo.
Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả nhưng khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị thánh Tử Đạo Việt Nam và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
12.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Khi mời gọi mọi người đi theo mình, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”(x. Mc 8,34). Khi huấn dụ cho các Tông đồ, Đức Giêsu báo cho họ biết trước: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét...” (x. Mt 10,22). Khi sai các Tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu cũng nói: “Thầy sai các con đi như đàn chiên đi giữa bầy sói”(x. Mt 10,16).
Như vậy, bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu, họ phải chịu muôn vàn hình khổ mà người đời có thể nghĩ ra, nhưng qua cái chết của họ nói lên cho thế giới nhiều điều. Đó là ba điểm chúng ta cùng nhau suy niệm trong ngày lễ hôm nay.
1. Bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu
Thật vậy, bách hại luôn gắn liền với đời sống của môn đệ Đức Giêsu và cuộc sống của Giáo hội mà Ngài sáng lập. Lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Sau cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ và vô số những người đi theo Ngài lần lượt bị giết hại. Thánh Stêphanô được xem là vị tử đạo tiên khởi. Rồi đến các thánh Tông đồ. Cứ thế, Giáo hội Rôma bị bách hại liên tiếp suốt 300 năm. Từ đó tới nay, nơi này hay nơi khác, không có thời gian nào mà Giáo hội không bị bách hại. Theo báo cáo của tổ chức “Open Doors”, trong năm 2013, trên thế giới có 2 123 vụ giết chết “tử vì đạo” (Nguồn: Reuters). Riêng tại Việt Nam chúng ta, Giáo hội cũng bị bách hại trong suốt gần 300 năm đầu, từ khi đón nhận Tin mừng. Bách hại khốc liệt nhất là thời kỳ của các vua nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Có khoảng 150 ngàn người chết tử vì đạo. Trong số đó, có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988 và một vị được phong Chân phước đó là thầy giảng Anrê Phú Yên.
Hiện tại, mặc dầu không có sắc chỉ cấm đạo một cách minh nhiên, nhưng Giáo hội Việt Nam vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.
2. Những hình khổ các Kitô hữu phải chịu?
Người ta có thể nghĩ ra muôn vàn hình khổ để bắt các vị Tử đạo phải chịu. Cụ thể, các Kitô hữu ở Rôma phải chịu các hình khổ như: Cho thú dữ phanh thây, chà đạp, xé xác, hoặc tẩm dầu đốt cháy như những ngọn đuốc trong đêm tối hay đóng đinh vào thập tự…Còn ở Việt Nam, hình khổ mà các vị Tử đạo phải chịu là: Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng; Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu; Thiêu sinh: bị thiêu sống; Xử trảm: bị chém đầu; Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Mặt khác, người kitô hữu phải chịu muôn vàn hình khổ khác do kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự Đức vào năm 1851 và 1856. Đây là một kế hoạch rất thâm độc: Thứ nhất, không cho người công giáo sống trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương; thứ hai, một người công giáo bị năm người bên lương canh giữ cẩn mật; thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người lương sử dụng và nộp thuế cho nhà nước; thứ tư, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi. Theo các sử liệu ghi chép lại, với kế hoạch Phân Sáp, có khoảng 400 000 kitô hữu phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50 000 – 60 000 tín hữu phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2 000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Ngoài ra, phải kể đến những cuộc thảm sát người Kitô hữu do phong trào Văn Thân ở thế ký 19 gây ra: tổng cộng số giáo dân bị giết khoảng 40 000 người, 30 linh mục Việt Nam, 20 thừa sai và hàng ngàn họ đạo bị thiêu hủy. (Nguồn các dự liệu: Internet)
3. Cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên điều gì?
Thứ nhất, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên niềm tin mãnh liệt của cha ông chúng ta đối với đạo Chúa. Thật vậy, cha ông chúng ta đã được đón nhận đức tin vào Chúa. Đức tin đó đã được đâm rễ sâu vào tâm hồn của các Ngài một cách chắc chắn đến nỗi không có gì có thể tách rời được. Đúng như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,38,39). Bằng chứng cụ thể: Tại công trường Đông Hới, quan tra vấn Cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ Cha bỏ đạo, quan còn ra lệnh đánh Cha 76 roi để uy hiếp tinh thần và dùng nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin của Cha Khoa, nhưng Ngài nhất quyết đi trọn con đường khổ giá, giữ vững đức tin. Các quan đành thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha.
Thứ hai, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên lòng trung thành với Thiên Chúa: Các Thánh Tử Đạo không chỉ trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc mà còn trung thành với Giáo Hội và nhất là với Thiên Chúa. Thánh Micae Hồ Đình Hy thưa với vua rằng: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô”. Thánh Phêrô Quí khẳng định: “Dù trăng trói, gông cùm, tù rạc; chén ngục hình xiềng toả chi nề; miễn vui lòng cam chịu một bề; cho trọn đạo trung thần hiếu tử”.
Thứ ba, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên đức hy sinh can đảm phi thường: Con người ai mà không tham sống sợ chết, ai mà không sợ đau khổ, nhất là những đau khổ man rợ như: voi dày, thiêu sinh, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Vậy mà, nhờ ơn Chúa trợ giúp, các Thánh Tử Đạo đã hy sinh, can đảm lướt thắng tất cả những khổ hình để giữ vững đức tin, giữ vững lập trường: “Thà chết chứ không chịu bỏ đạo, bỏ Chúa”. Thánh Anrê Thông xác quyết: “thà tôi bị lưu đày và chịu chết vì Chúa; Chứ tôi không chối đạo”. Thánh Laurenxô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh Giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”. Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, khẳng định: “Tôi là một kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
Tóm lại, cái chết của các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy niềm tin mãnh liệt vào Đạo, lòng trung thành sắt son với Chúa và sự hy sinh can đảm phi thường trước muôn vàn hình khổ của cha ông chúng ta. Vì thế, cái chết của các ngài như những hạt giống tốt được Thiên Chúa gieo vào lòng đất và trổ sinh nhiều bông hạt. Đúng như câu nói bất hủ của giáo phụ Tertulien: “máu các Thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các Kitô hữu”. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nói: Sỡ dĩ Giáo Hội đã phát triển mạnh là nhờ “thời gian gieo giống của các Đấng tử đạo và gia sản sự thánh thiện của các thế hệ Kitô hữu đầu tiên”. Nói cách khác, chính hành vi làm chứng đạo bằng cái chết của vô vàn tiền nhân đã xây dựng nên Giáo Hội.
Năm 2018, chúng ta sẽ kỷ niệm 30 năm Toà Thánh nâng 117 vị Tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Vậy, “chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những chứng nhân anh dũng, dám sống mầu nhiệm hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại nhiều hoa trái (x. Ga 12,23-25)”. Đồng thời, “kỷ niệm biến cố phong Thánh Tử Đạo là dịp để chúng ta ôn lại đời sống chứng nhân của các ngài, noi gương các ngài, sống tinh thần Phúc Âm trong mọi hoàn cảnh, cộng tác phần mình xây dựng một Giáo Hội vững mạnh và một xã hội công bằng và nhân ái.” (x. Thư chung HĐGM Việt Nam 2017, số 5).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Amen.
13.Sống và sống dồi dào
Mt 10, 17 - 22
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nuớc VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: "anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn..." Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẻ như sau:
cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: "anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét." (Mt 10,18+22). "Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẳng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: "đất nước này rồi sẽ lắm đau thương." Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: "Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì.." Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ....
Bà thánh Inê Đê , thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: "các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây". Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế...
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy mà Thánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam