Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 30
Tổng truy cập: 1360601
NHỮNG SỢI DÂY VÀ NHỮNG CHIẾC CẦU
“Dụ ngôn chủ vừơn nho là một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ chúng ta”.
Chiếc cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu Melrose thừơng được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
Có lẽ Chúa Giêsu đã kể chuyện nhiều hơn phần lớn các Tôn Sư khác. Câu chuyện Ngài kể được gọi là dụ ngôn. Có người đã khéo léo mô tả dụ ngôn như là một câu chuyện bàn về thế trần hàm chứa một ý nghĩa thiên quốc. Nhằm mục đích thực tiễn hoàn toàn, các dụ ngôn của Chúa Giêsu thừơng là một trong hai dạng sau: dụ ngôn “Cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi mặt”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là một chuyện đơn sơ nói về Chúa hay về Nứơc Chúa. đây là một “cửa sổ bằng lời nói” qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về Thiên Chúa hoặc Nước Chúa. Dụ ngôn dạng này thường bắt đầu với những từ sau: “Nước Trời giống như…”
Một ví dụ về dụ ngôn dạng “Cửa sổ” là câu chuyện con chiên lạc của Chúa Giêsu. Câu chuyện này so sánh mối quan tâm của người mục tử đối với một con chiên lạc và sự quan tâm của Cha Ngài đối với kẻ tội lỗi. Người mục tử ra đi tìm kiếm con chiên lạc đường. Khi tìm thấy nó, ông đã không cột chiên con vào một cái dây rồi trừng phạt nó mà lại âu yếm đặt nó trên vai mang về nhà. Chủ ý Chúa Giêsu là tỏ cho thấy Cha Ngài trên trời cư xử với kẻ tội lỗi cũng y hệt như thế. Như thế các dụ ngôn dạng “cửa sổ” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa và Nước Ngài.
Còn ngược lại các dụ ngôn dạng “kiếng soi” là những câu chuyện có tác dụng như “chiếc gương soi bằng lời” Nghĩa là, chúng giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Chúa Giêsu đã xây dựng các dụ ngôn này khéo léo đến nỗi các nhân vật trong dụ ngôn đại diện cho cả đám cử toạ đang nghe Ngài. Nói cách khác, đám người đang nghe Chúa Giêsu có thể nhận ra chính mình là một trong những nhân vật được nêu ra trong dụ ngôn.
Dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay là một ví dụ rất hay thuộc dạng này, Chúa Giêsu ám chỉ trực tiếp và đặc biệt đến các trưởng tế và biệt phái. Hãy nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn sẽ thấy ngay Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào trong cuộc sống thực tế ngoài đời.
Dĩ nhiên, Chủ vườn nho không ai khác hơn là ngoài Thiên Chúa. vườn nho, theo như bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy, là dân tộc Israel. Tá điền vườn nho là các vị lãnh đạo Israel. Nhóm đầy tớ đầu tiên được chủ vườn sai đến là các tiên tri thuở xưa được Chúa phái đến với Israel. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp cũng do Chúa phái đến với Israel. Con trai chủ vườn, tức kẻ bị giết, là Chúa Giêsu. Đám nông gia tá vườn mới mà chủ vườn giao vườn nho lại là các Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Phần cuối dụ ngôn, không được trưng ra trong bài đọc hôm nay kể lại rằng: “Các tư tế và biệt phái đều hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói về họ”. Nói cách khác, họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” này và trông thấy chính mình. nhưng thay vì hoán cải, họ vẫn cứ tiếp tục bước đi trong đường nẻo sai lạc của mình.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn nạn quan trọng, phải chăng Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này chỉ nhằm tác động đến các trưởng tế và biệt phái mà thôi không? Hoàn toàn không phải thế. Ngài còn nhắm cả đến chúng ta nữa. Như thế dụ ngôn này nói lên với chúng ta điều gì? Tôi xin đưa ra bốn điểm sau:
– Trước hết, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Thánh Kinh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu rõ rệt về Giao ước và Giao ước mới. Lần giao ước vườn đầu tiên ám chỉ đến Cựu ước. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến Tân ước.
– Thứ đến, dụ ngôn này xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điền không phải là một đầy tớ nào khác mà chính là con trai của chủ vườn.
– Thứ ba, dụ ngôn xác nhận các Tông Đồ của Chúa Giêsu là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
– Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá vườn thay đổi đường lối. Khi ông ta thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha trên trời của chúng ta vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như thế, dụ ngôn hôm nay không chỉ nói với các trưởng tế và biệt phái thời Chúa Giêsu mà còn nói với chúng ta nữa. Dụ ngôn tóm lược câu chuyện Thánh Kinh về ơn cứu độ, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, các Tông đồ Chúa là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa, và cuối cùng dụ ngôn ấy còn dạy chúng ta về lòng kiên nhẫn lớn lao của Chúa dành cho chúng ta, đồng thời trách nhiệm riêng chúng ta phải chịu trước mặt Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một tư tưởng có tính cách cầu nguyện mà Richard Wilson viết ra cách đây nhiều năm. Tư tưởng này được viết thành những vần thơ trữ tình như sau:
Đức Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Ngài chỉ cho thiên hạ cũng như chỉ cho bạn và tôi
Cách thức sự việc xảy ra như thế nào.
Ngài đã dùng bầu trời
Ngài đã dùng biển cả
Ngài đã dùng chim muông
Ngài đã dùng cây cối
Ngài đã dùng bất cứ những gì Ngài có thể trông thấy,
Ngài là Người kể chuyện à?
Phải, Chúa Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Đó là phương cách Ngài dùng
Chỉ cho thiên hạ, cho bạn cho tôi
Biết sự việc sẽ xảy ra thế nào.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
THIÊN TÌNH SỬ GIỮA ĐỨC CHÚA VÀ DÂN NGÀI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII này, Bài Đọc I trích từ Is 5-1-7 và Tin Mừng trích từ Mt 21: 33-43 cách nhau khoảng tám trăm năm, tuy nhiên cả hai xướng đáp với nhau qua cùng một dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.
Is 5: 1-7
Trong một bài thơ trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được ông chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại trái với lòng mong ước của ông. Lúc đó, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bội nghĩa “chính là dân Ít-ra-en”.
Pl 4: 6-9
Trái với bầu khí bi thương của Bài Đọc I và Tin Mừng, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê tràn ngập bình an, chan chứa niềm tin tưởng và đầy lòng yêu thương.
Mt 21: 33-43
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn về “các tá điền gian ác”. Sau khi đã đối xử tàn ác với các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng ra tay sát hại cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.
BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)
Bài thơ ca ngợi “vườn nho” của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng, vì giá trị văn chương của nó. Đây là một bài thơ được trao chuốc rất công phu nói về dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Về hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã đón nhận nguồn cảm hứng từ ngôn sứ Hô-sê:
“Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10: 1)
Hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa” nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), trong Thánh Vịnh (Tv 80), qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Trên môi miệng của Đức Giê-su, hình ảnh này rõ ràng quy chiếu đến bài thơ của I-sai-a (Mt 21: 33-41).
Ngữ cảnh:
Các nhà chú giải có thể ấn định niên biểu của bài thơ về vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị đạo quân Sy-ri liên minh với đạo quân vương quốc miền Bắc vây hãm.
Những sứ điệp đầu tiên của vị ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng của vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thơ về vườn nho của ông là một lời cảnh báo.
Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thơ của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, xứ Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thơ của vị ngôn sứ chạm đến độ nhạy cảm của một dân trồng nho.
Cấu trúc:
Bài thơ được xây dựng theo cách thức của một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được đan quyện vào nhau. Đáp lại sự ân cần chăm sóc của người chồng là sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Cũng như trong các bài thi ca trữ tình khác, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.
Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là chủ vườn nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời, và chính lúc đó một mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh hoa lợi, chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bội nghĩa của nó (5: 7).
Bạn của chủ vườn nho cất tiếng (5: 1-2):
Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài ca hôn nhân (tước hiệu mà Gioan Tẩy giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thơ mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”. Ông chủ cất một vọng gác trong vườn nho nói lên một sự ân cần hết mức của ông dành cho vườn nho của mình: canh giữ vườn nho ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con vật phá hoại …Than ôi, mặc cho những ân cần săn sóc giữ gìn của ông chủ, vườn nho chỉ sinh nho dại!
Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền gian ác”: “Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33).
Ông chủ vườn nho thổ lộ tâm sự (5: 3-6):
Đến phiên mình, ông chủ vườn nho thổ lộ tâm can. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức mà ông đã đổ ra cho vườn nho của ông cách vô ích: “Người Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa hỡi”. Vườn nho vô ơn bội nghĩa sẽ phải đón nhận sự trừng phạt đích đáng. Ông sẽ không còn quan tâm đến vườn nho của mình để mặc cho nó bị giày xéo và trở nên hoang phế, không người chăm sóc và không cho mưa trời tưới xuống. Lối nói ngoa ngữ: “Sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” ở đây để cho thoáng thấy ông chủ vườn nho là một nhân vật đầy quyền năng.
Vị ngôn sứ tiếp lời (5: 7)
Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị rất khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài việc thú nhận mình là vườn nho được Chúa vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những nho dại, vì thế đáng bị trừng phạt.
Phương pháp tâm lý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than đã áp dụng cho vua Đa-vít về tội vua sát hại người tôi trung của mình là ông U-ri và cướp đoạt vợ của ông. Ngôn sứ Na-than cũng xây dựng một dụ ngôn về người giàu có một trăm con chiên mà lại bắt một con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt để đãi khách. Khi vừa nghe xong dụ ngôn, “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Ngôn sứ Na-than trả lời: “Kẻ đó chính là ngài” (2Sm 12: 1-7). Cũng vậy, ngôn sứ I-sai-a vạch mặt chỉ tên: “Vườn nho của Chúa Tể càn khôn, chính là nhà Ít-ra-en đó. Cây nho Người mến yêu quí chuộng, ấy là dân nước Giu-đa”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống, theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.
Di sản Do thái giáo:
“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Đây là lời cầu nguyện mang đậm nét lời cầu nguyện Do thái giáo qua việc lập đi lập lại những lời ngợi khen, cảm tạ và tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, được xen lẫn với những lời khấn nguyện cầu xin Chúa rủ lòng thương. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp thực hành như thế.
Mặc Khải Kitô giáo:
“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Kitô”. Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn ban khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh nhân đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu và giữa các Kitô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.
Lý tưởng Hy lạp:
Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp. Thánh nhân khuyên họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.
Như vậy, thánh Phao-lô đã không xem thường lý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy-lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Kitô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ khiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”. Công Đồng Va-tican II cũng đã dạy theo cùng một cách như vậy: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vui Mừng và Hy Vọng, 1).
TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)
Tiếp theo dụ ngôn về “hai người con” mà chúng ta đã suy gẫm vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu ghi tiếp dụ ngôn về “những tá điền gian ác” theo cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng.
Dụ ngôn “Những tá điền gian ác”:
Đức Giê-su mượn ở nơi bài thơ của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về ông chủ vườn nho: “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với ngôn sứ I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ mặc thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.
Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”. Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình, vì nghĩa rằng: “Chúng sẽ nể con ta!”. Nhưng ông không ngờ, bọn tá điền muốn cướp đoạt vườn nho, vì thế “chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.
Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ:
Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Vườn nho của Đức Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ chăm lo vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn thói nào tật nấy hành xử với các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng lòng nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy “Người Con Một” của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài, tức là biến dân của Ngài thành dân của họ.
Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.
Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội.
Như vị ngôn sứ trong bài ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ về thái độ của bọn tá điền, không ngờ chính mình lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn hai người con trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng khi trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh nầy ca ngợi việc chấn hưng dân Ít-ra-en tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (cf. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).
Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con nầy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam