Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1361940

NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI

NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI (*)– Chú giải của Noel Quession

Từ “Thăng Thiên” có thể mang một sắc thái xấu đối với các Kitô hữu, nếu chúng ta để cho trí tươởg tượng biểu thị một cách vật lý điều mà thực ra là một mầu nhiệm vô cùng của đức tin. Bản văn của Mátthêu khác với bản văn của Luca, không nói với chúng ta về sự thăng thiên (lên trời) nhưng về sự hiện diện mới thánh sử mời gọi chúng ta không nên cử hành ngày này như “sự ra đi của một người thân yêu mà người ta đưa ra phi trường trước khi phi cơ cất cánh”. Vậy chúng ta hãy quên đi mọi sự tưởng tượng của chúng ta và lắng nghe Đức Giêsu: Không nói về sự ra đi, Người nói về sự hiện diện khắp mọi nơi! “Thầy ở cùng anh em mọi ngày…” Vậy chúng ta hãy lắng nghe trang cuối cùng của Tin Mừng Thánh Mátthêu. Đó là bảng tỏm tắt bài tường thuật tất cả các từ ngữ đều chuyện tái ý Đó. Chúng ta hãy suy niệm về tất cả các từ ấy

Mười một môn đệ.

Họ gồm có “mười một” và chỉ mười một thôi! Rất ít đối với một trách nhiệm tỏ lớn mười một chứ không phải mười hai, như chúng ta đã quen từ lúc bắt đầu Tin Mừng. Quả thực, đây là một Giáo Hội rất nghèo nàn.. một nhóm quá nhỏ, bị cắt cụt bởi vì một người trong số họ đã bỏ ngũ. Không phải chỉ hôm nay mới có những người bỏ rơi đồng đội.

“Mười một môn đệ”.. Mátthêu gọi họ là “môn đệ” thay vì là “tông đồ” điều Đó là có dụng ý. Ở đây, họ không ở vị trí của những người được giao cho một quyền bính đặc biệt. Hoàn toàn đơn giản, môn đệ là điều kiện chung của mọi người đi theo Đức Giêsu, là bạn hữu của Người. Môn đệ ư? Bạn, tôi chúng ta…Bạn có phải là một môn đệ không? Bạn hãy nhớ rằng Giuđa đã làm lỡ một cuộc hẹn gặp.

Đi tới miền Galilê…

Nhấn mạnh trên địa điểm hẹn gặp này là điều có ý nghĩa đối với Mátthêu; thánh sử đã không ngần ngại cho địa điểm ấy là nơi xảy ra sự xuất hiện chính thức, để tôn cao giá trị của miền Galilê… và không nói đến những lần hiện ra ở Giêrusalem trong các tường thuật Tin Mừng khác.

Galilê! Nơi hẹn gặp đã được Đức Giêsu chỉ định sau bữa ăn cuối cùng: “Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mt 26,32). Ở ngôi mộ trống, thiên thần đã nhắc lại cuộc hẹn gặp: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ Người rằng Người đi Galilê trước các ông và ở Đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,7). Galilê! Miền đất mà Mátthêu đã chú ý mang lại ý nghĩa tượng trưng ngay từ đầu sứ vụ của Đức Giêsu trong tỉnh Đó khi dẫn lời ngôn sứ: Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại… những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi! (Mt 4,15; Isaia 8,23 – 9,l).

Galilê! Tỉnh xanh tươi và ngọt ngào: Xứ sở của sự sống! Galilê! Tỉnh của nhiều sắc dân trộn lẫn, xứ sở mà các người thanh khiết ở Giêrusalem khinh bỉ, xứ sở mở ra cho những xứ sở khác, cho những dân ngoại đây là miền đất của sự tiếp xúc, nơi hòa trộn niềm tin với sự vô tín.

Galilê! Miền đất cội rễ của con người Giêsu Nadarét: Người trở nên một thân thể với xứ sở này; người là một người Galilê; có giọng nói của người miền Bắc, “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Gioan l,46) đối với chúng ta, Đó là một lời mời gọi chớ nên mơ tưởng đến một chỗ nào khác: Ờ, phải chi tôi có một tổ ấm khác!

Phải chi tôi học trong một trường học khác! Phải chi các đồng nghiệp tôi thế này, thế khác; giáo xứ tôi thế nọ, thế kia! Đức Giêsu hẹn gặp bạn trong miền Galilê của chính bạn.

…Đến ngần núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến.

Trong toàn bộ Kinh Thánh, núi là nơi tượng trưng cho sự gặp gỡ với Thiên Chúa và cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Ở trên cao, người ta nhìn xa… xa hơn như khi ở trong cánh đồng! Ở trên cao, người ta hít thở khoáng đãng hơn.., trong lành hơn sự ô nhiễm của các thành phố! Ở trên cao, người ta cô quạnh hơn… và có nhiều khả năng hơn để lắng nghe tiếng nói của sự im lặng, thường bị nhận chìm bởi những mớ lộn xộn của sự nhiều lời trống rỗng! Núi Xi-nai nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa duy nhất lần đầu tiên. Núi các mối Phúc Thật (Mt 5,1). Núi của sự biến hình (Mt 17,1). Núi chữa bệnh (Mt 15,29). Núi cầu nguyện (Mt 14,23). Núi hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32) làm thế nào mà sự sống lại không được biểu lộ trên núi chứ? (Mt 28,16).

Còn bạn? Phải chăng bạn có những cuộc hẹn gặp trên núi nơi mà Đức Giêsu ra lệnh cho bạn đến gặp Người?

Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.

Bái lạy. Hoài nghi. Hai từ này bề ngoài hoàn toàn đối lập nhau, nhưng Mátthêu tập họp chúng trong cùng một câu. Vâng, cũng trên nhọn núi ấy, có chỗ cho thực tại đáng sợ ấy: Sự hoài nghi bái lạy là sự chiến thắng trên hoài nghi. Đức tin là một hành động tự đo, rất khác với những điều hiển nhiên buộc phải chấp nhận của bình diện khoa học. Tin Mừng rất khiêm tốn, không có gì là bực dọc và hứng khởi vô lý mọi tường thuật các lần xuất hiện sau khi sống lại đều có một nét chung: Đức Giêsu sống lại không “hiển nhiên”… người ta ngần ngại thừa nhận điều Đó.

Bạn đang tìm kiếm và hoài nghi, vậy bạn hãy thử bái lạy, thờ phụng Người.

Đức Giêsu đến gần, nói với các ông.

Tôi chiêm ngắm hành động này trong nội tâm trong một trường hợp duy nhất khác, Mátthêu ghi nhận động tác tiếp cận ấy mà Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là lúc Người biến hình. Khoảng cách của Thiên Chúa đối với con người rất lớn đến nỗi: Thiên Chúa cần phải đến với chúng ta một cách chủ quan, chúng ta không có khả năng tin tưởng. Sự khởi xướng thuộc về Thiên Chúa. Còn phần chúng ta, chúng ta có tự do đáp lại hành động tiếp cận của Người bằng sự thờ lạy.

Trong tường thuật Phục Sinh của Mátthêu, chúng ta nhận thấy sự kín đáo tột độ: Không có chi tiết cụ thể nào…Đức Giêsu chỉ đến gần và nói! Toàn bộ Tin Mừng của Mátthêu có đặc tính nhấn mạnh trên những bài giảng văn Đức Giêsu: Đức Kitô của Mátthêu là một Đức Kitô thuyết giảng năm bài giảng lớn đã tạo thành nhịp điệu sự tường thuật của Mátthêu. Vậy, đây là lời tôn vinh và kết luận: những lời sau cùng của Người.

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất…”

Công thức này khẳng định sự bình đẳng của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Thật vậy, trong toàn bộ Cựu ước, chỉ Thiên Chúa mới là “Chúa của trời đất”… vũ trụ hữu hình và vô hình.

Công thức này, không mô tả sự Thăng Thiên bằng những từ ngữ cụ thể nhưng đòi hỏi phải có sự việc Đức Giêsu lên trời từ nay thống trị toàn thể vũ trụ. Dĩ nhiên, vấn đề không phải là tìm kiếm Đức Giêsu giữa những vì tinh tú, trong “bầu trời đầy sao”.

Công thức nêu lên ý niệm về toàn thể: Không có gì nằm ngoài quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Đức Giêsu sống lại là Chúa Thượng của mọi tạo vật!.

Khi đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu, Người nói “này là mình Thầy, này là máu Thầy”, Người chỉ mang lại cho chúng ta “dấu chỉ” về hiệu quả của quyền chủ tể của người trên mọi phần của vũ trụ… và do Đó trên mỗi người chúng ta và chúng ta thật sự trở thành nhiệm thể của Người.

Và Thánh Phaolô trong bài đọc I của ngày hôm nay, cũng khẳng định quyền chủ tể ấy: Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức kitô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô!” (Ep 1,20-23). Phải, chúng ta là thân thể Đức Kitô! Vì thế mà Phaolô phải nói rằng “Thiên Chúa đã cho chúng ta cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời (Ep 2,5-6).

Phụng vụ của chúng ta không chỉ cử hành các kỷ niệm của quá khứ các lễ mừng trọn năm: Phụng vụ làm cho chúng ta tham dự trước những điều kỳ diệu của thời Thế Mạt, Phaolô biết rất rõ ràng những người mà ngài viết cho họ chưa ngự trị trên cõi trời. Bị bầm giập bởi thử thách, họ biết mình phải chết tuy nhiên sự “thăng thiên của chính họ đã được tham dự trước, trong Đức tin vào Đức Kitô”.

Điều Đó chẳng phải cho chúng ta tất cả cách sống và cách cử hành phụng vụ sao?

“Vậy anh em hãy đi và làm cho MUÔN dân trở thành môn đệ…”

Sau TOÀN quyền mà Đức Giêsu đã được trao ban, giờ đây toàn thể trường hoạt động của Đức Kitô qua thân thể Người tức là các môn đệ được nêu lên trước kia trên núi cám dỗ, Đức Giêsu đã từ chối nhận của xa tan “tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy” (Mt 4,8-10). Giờ đây, lúc có vẻ sắp ra đi, Đức Giêsu táo bạo ấy đã nhắm đến toàn thể vũ trụ trong cuộc chinh phục một cách hòa bình, qua mười một con người ấy muôn dân, mọi quốc gia mọi con người? Đức Giêsu đang nhìn từ tầm nhìn cao cả nhất.

Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”

Một công việc vĩ đại, nhấn chìm nhân loại vào một không gian mới: Ba Ngôi Thiên Chúa… Ba Ngôi là tình yêu liên ngôi vị tinh tuyền và trong suốt nhất mà chỉ Ba Ngôi mới có.. để cho dù nhiều tất cả chỉ là một. Đó cũng chính là giấc mơ của mọi tình yêu.

“Dạy bảo họ tuân giữ MỌI điều Thầy đã truyền cho anh em..”

Vậy thì, đấy là toàn bộ hành động của con người phải được đặt dưới quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh trước hết, làm môn đệ của Đức Giêsu không phải là một thái độ trí thức việc dạy giáo lý cũng vậy, trước tiên không phải là truyền thông những khái niệm, nhưng là tập luyện một cách sống bao gồm mọi khía cạnh của đời sống.

“Và đây Thầy ở cùng anh em MỌI ngày cho đến tận thế”

Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh, không chỉ tràn ngập mọi nơi trên trần thế mà còn bao trùm toàn bộ thời gian! Sứ thần khi truyền tin cho Thánh Giuse lúc Tin Mừng bắt đầu đã nói: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Mọi Tin Mừng của Mátthêu do đó đều bao hàm trong tư tưởng ấy.

Một lời mời gọi phi thường: Nếu Thiên Chúa hiện diện mọi ngày, mọi lúc… nếu chúng ta có thể nói rằng chính chúng ta cũng hiện diện và ở cùng Thiên Chúa? Thi hào Tagore nói rằng “ước gì đời sống của con như một cây sáo trúc, để Ngài có thể làm đầy bằng âm nhạc”.

Mỗi ngày hôm nay, mỗi giây phút của đời tôi có thể trở nên rực sáng bởi tình bầu bạn ấy của Đức Giêsu! Ôi, Lạy Chúa Giêsu…

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt


CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A

“THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ”- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

*1. Kết thúc mà lại khởi đầu

Phụng vụ bài đọc năm A về lễ Thăng Thiên mời gọi ta suy niệm những câu cuối cùng của Phúc Âm thứ nhất. Đoạn văn kết thúc Phúc Âm Matthêu này đặc biệt gợi nhớ đến hai chương đầu của Phúc Âm.

– Thực vậy, khi viết “Phúc Âm về thời niên thiếu”, thánh Matthêu muốn mời gọi ta coi việc Đức Giêsu giáng sinh tại Belem, thành vua Đavít là ứng nghiệm lời tiên tri về một Đấng “Emmanuel”: Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7), còn các Đạo sĩ đến từ phương Đông tiêu biểu cho những người tiên phong của Dân Ngoại đang đi đến niềm tin vào Đức Kitô: “Họ THẤY Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền SẤP MÌNH THỜ LẠY NGƯỜI”.

– Ở đoạn kết thúc, rõ ràng là thánh sử, đã lấy lại cũng những lời lẽ trên để thuật lại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Người ở Galilê: “Khi THẤY Người, các ông SẤP MÌNH THỜ LẠY Người”. Rồi Đức Giêsu trao cho các ông sứ mệnh đến với “MUÔN DÂN” và long trọng tuyên bố rằng: “THẦY Ở CÙNG CÁC CON” mọi ngày cho đến tận thế”.

Radermakers chú giải: “Ở đây chúng ta thấy con người Đức Giêsu dầu mang dấu vết của một con người được sinh ra ở một thời điểm và sinh sống ở một nơi chốn nhất định, vẫn có cả một sự bao trùm lớn lao, trải rộng đến mọi chiều kích của toàn thể lịch sử nhân loại” (“Au fie de l’Evangile selon saint Mathieu, Viện Nghiên cứu Thần học, Bruxelles, 1974, trang 362).

*2. Khi hồi kết thúc loan báo một khởi sự mới

Sau Phục sinh, Đức Giêsu hẹn gặp lại các môn đệ Người, không phải ở Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh như trong Phúc Âm Luca, mà là ở “Galilê” miền đất vẫn bị mọi người nhìn bằng nửa con mắt, là “nơi qui tụ dân” là biểu tượng của thế giới ngoại giáo (Mt 4,12-23).

Giáo Hội… phải rời bỏ Giêrusalem mà về mặt địa lý cho tới lúc ấy vẫn được coi là trung tâm đức tin, nơi có Thiên Chúa hiện diện, để đi tới miền vốn được coi là “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa ngay là một “Giáo Hội vì mọi người”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội, điều mà không bao lâu sau Đức Giêsu sẽ nói rõ ràng” (Cahiers – Evangiles” số 9, trang 6).

Nơi Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đi tới, là một “ngọn núi” vốn là nơi rất thích hợp cho việc Chúa mạc khải. Một lần nữa ở dân cũng như trải dài suốt Phúc Âm của Ngài, thánh Matthêu đều trình bày Đức Giêsu như một Môsê mới ban Luật của Người cho dân tộc mới của Thiên Chúa.

Cl. Tassin chú giải: “Như trong một cuốn phim, người ta lần lượt thấy xuất hiện những ngọn núi: núi quỷ cám dỗ khi chỉ cho Đức Giêsu xem thấy các nước trần gian, núi Bát Phúc, nơi Thầy công bố hiến chương Nước Trời, và Núi Hiển Dung nơi vinh quang Con Người được tỏ hiện; nổi bật hơn cả vẫn là cảnh âm u tịch mịch của núi Nê-bô, nơi Môsê phải nói lời giã biệt trước khi dân tiến vào Đất Hứa” (“Phúc Âm thánh Matthêu, NXB. Centurion, trang 303).

– Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ liền “sấp mình thờ lạy Người” trong một cử chỉ vừa tôn kính theo đạo giáo, mà cũng có tính cách phụng thờ, y như các đạo sĩ đã làm khi thấy hài nhi với thân mẫu là bà Maria (2,2.8.11); cũng như các môn đệ đã bày tỏ khi ở trong thuyền lúc sóng to gió cả, và đó cũng là cử chỉ của người phụ nữ xứ Canaan vậy (15,25).

Nhưng lòng tôn thờ của các ông còn vương vấn “sự hoài nghi”, mối hoài nghi này, theo như J. Radermakers nhận xét chí lý, chính là người bạn đồng hành không thể tách biệt của một lòng tin đang lần bước”.

– Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần”), Đấng mà các ông sấp mình thờ lạy ấy, chính là Đức Chúa hiển vinh. Một khi đã được vinh thăng, được trao ban quyền tối cao xét xử toàn cầu (“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”) thì giờ đây Người có lý khi sai các môn đệ của mình đi khắp thế giới để làm cho vương quyền ấy được thực hiện.

Những lời Người ban bố cho họ đánh dấu sự khai trương một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Người, sứ mệnh mà từ này trở đi Người sẽ vẫn tiếp tục nhờ Giáo Hội.

+ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Suốt thời gian thừa hành sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã phải tự ý giới hạn hoạt động của Người đối với “các chiên lạc của nhà Israel”. Từ nay những biên giới ngăn cách do không gian và thời gian đều bị bãi bỏ vì Người có thể thực thi trọn vẹn sứ mệnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đúng như Matthêu đã loan báo, khi mượn lời sấm của Isaia 42,1-4: “Và môn dân sẽ đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,18-21). Dân ngoại có mặt ngay từ buổi đầu của Phúc Âm thì cuối cùng vẫn thấy mình là những con người được Tin Mừng nhắm tới. Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội Người sứ mệnh truyền giáo khắp hoàn cầu này.

Cl. Tassin còn muốn lưu ý ta rằng: “Điểm nhấn mạnh không ở tại động từ “Đi” hay ở tại sứ mệnh chinh phục địa lý, mà cốt ở việc mở ra cho hết mọi nhóm người không phân biệt một ai. Bởi lẽ Đức Giêsu đã được “trao toàn quyền” thì mọi người đều phải thần phục quyền bính của Người. Đối với Matthêu, truyền giáo là gì? Thưa là: những môn đệ làm cho những người khác trở thành môn đệ; là những người nam cũng như nữ cảm nghiệm sâu sắc rằng giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi chính cuộc đời của họ, họ chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, dạy bảo cho những người ấy tuân giữ mọi giới luật của Đức Giêsu mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một luật là tình yêu” (O.C., trang 304).

+ “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Truyền giáo không phải là tuyên truyền một ý thức hệ, dù là cao siêu tuyệt vời, mà là chủ trương không ngừng xây dựng một cộng đồng: cộng đồng của những con người nhờ chịu phép rửa mà muốn sống gắn bó mật thiết với nhau bởi cùng thuộc về một Thiên Chúa là “Cha, Con và Thánh Thần”.

+ “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Truyền giáo không thể chỉ thu gọn lại trong việc kêu gọi người ta trở lại rồi bỏ mặc đấy. Giáo Hội sẽ phải giúp đỡ những tân tòng ngày qua ngày sống hoà nhập với cuộc đời mới mà họ đã bước vào.

  1. Radermakers đưa ra nhận xét sau: “Chính Phúc Âm nhìn toàn bộ là một giáo huấn về cuộc sống, được hiểu như dấu chỉ của bí tích trong phép rửa tội và được triển khai cách hài hoà trong cuộc sống đời thường; đời sống luân lý trong cộng đồng Kitô hữu chẳng qua là sống Tin Mừng bằng việc làm cụ thể” (O.C., trang 365).

+ “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đây là lời tuyên bố cuối cùng và cũng là điểm cao nhất của lời Chúa phán vì là lời hứa bảo đảm một sự hiện diện tích cực và hữu hiệu vô bờ bến. Cuối Phúc Âm của mình, thánh Matthêu mới cao rao rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

Potin kết luận: “Đức Giêsu không xa lìa Giáo Hội của Người. Mặc dầu ta không trông thấy Người, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi mà Giáo Hội sẽ lan rộng tới, cho đến tận thế. Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu không biến mất lên trời. Nhưng lời nói cuối cùng của Người cũng là câu sau chót của Phúc Âm, hứa rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vả lại trước đây há chăng Người đã chẳng tuyên bố: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Đấng Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê, Người đi theo các tông đồ của Người trên mọi nẻo đường trần gian” (“Jésus, l’histoire vraie” NXB Centurion, 1994, trang 516).

BÀI ĐỌC THÊM:

*1. “Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s’est approché”).

“Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một màn khai mở: đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Phải suy niệm, và nhìn ngắm mới thấy rõ việc truyền giáo là con tim đang đập trong lồng ngực Giáo Hội có tác dụng kích thích Giáo Hội. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, và qua các ông, cho chung tất cả mọi môn đệ, Đức Giêsu thành người sống đương thời với chúng ta: Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế… Việc gặp gỡ Mười Một Tông đồ là điều có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Phục sinh. Trước khi đi vào cuộc khổ nạn Người đã báo trước: Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em. Sau khi Phục sinh, Người nói lại sứ điệp ấy với các phụ nữ đứng bên mồ và triệu tập các môn đệ: “Các bà hãy về báo cho anh em Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”. Vì nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, sự phục sinh nhân loại mới có thể được thực hiện. Khi sai các môn đệ… Đức Giêsu phục sinh là cội nguồn của việc truyền giáo. Quyền năng Thiên Chúa đã cho Người sống lại trở nên quyền năng cứu độ cho mọi dân tộc. Chúng ta nhận biết quyền năng ấy, và chỉ có lòng tin mới tiếp nhận được thôi (cũng như 11 tông đồ) các ông gặp Đức Giêsu trên núi, là nơi vốn xảy ra những cuộc hiển linh của Chúa, như ở núi Sinai hay ở núi Hiển Dung. Thái độ của các tông đồ lúc ấy diễn tả lòng tin của ta: tôn thờ mà lại do dự: khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Cảnh tượng thật long trọng, giống như một cuộc hành lễ, chứ không còn là buổi gặp gỡ thân tình như những lần hiện ra trước đây. Là vì lần gặp gỡ này xác định nền tảng, hình thức và chân trời cho sứ mệnh truyền giáo vậy.

Nền tảng ấy là quyền hành mà Đức Giêsu nhận được: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Không phải là quyền của kẻ có sức mạnh trong tay và thống trị, mà là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. Không phải là quyền chiếm đoạt như Tên Cám dỗ đã đề nghị cho Người. Nhưng là quyền của tình yêu không để bị khuất phục. Đó là sức mạnh của sự phục sinh được khơi nguồn trong Đức Giêsu và nhờ Người sức mạnh ấy làm thay đổi cả thế giới. Những nỗ lực truyền giáo, tinh thần can đảm để không ngừng thực thi sứ mệnh, tất cả đều nhờ sức mạnh ấy mà tìm được chỗ dựa bảo đảm. Sức mạnh này không phải do ta khôn ngoan, tài khéo, tận tuỵ mà có được… anh em hãy đi! Đó là một lệnh truyền. Từ buổi đầu cho đến nay, lệnh sai đi này vẫn vang lên không ngừng, vẫn luôn luôn gợi ra những sáng kiến mới lạ, những cuộc lên đường mới, một đà tiến mới tới miền xa xăm hay rất gần mà chúng ta đều mắt thấy tai nghe qua suốt dòng lịch sử.

Bởi lẽ chân trời truyền giáo là tất cả mọi quốc gia, và hạn kỳ là cho đến tận thế. Việc truyền giáo chẳng bao giờ cùng về mặt địa lý cũng như về lịch sử. Ta tham gia vào công việc này ngay ở nơi ta đang ở và thời đại ta đang sống. Mỗi người lãnh phần trách nhiệm của mình, nhưng mỗi người không phải chịu trách nhiệm về tất cả. Quan tâm thôi, không đủ; mà phải hành động. Mỗi người chúng ta được sai đến ở nơi mình đang ở; ta không thể chỉ là người hưởng ơn cứu độ, mà cũng còn là dụng cụ Chúa dùng để ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô đạt tới những kẻ khác, những người ta đang sống với, những người ta được sai đến với họ ở cận kề bên ta hay ở xa ta. Nhiệt tình do Đức Giêsu phục sinh ban cho vẫn có trong con tim của mọi cuộc đời Kitô hữu. Đời sống này trở nên suy nhược khi bóp nghẹt nhiệt tình này bằng lối sống vị kỷ, khép kín. Cần phải biết sống chia sẻ để khởi xơ cứng và chết. Cũng vậy, Giáo Hội không thể ở thể tĩnh. Giáo Hội được sai đi…

Hình thức việc truyền giáo cũng được chỉ rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Chúng ta nhận thấy có ba mặt: loan báo Tin Mừng để khơi dậy được những con người môn đệ, tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh bằng việc lãnh nhận phép Rửa và các bí tích, sống đời sống mới bằng cách thi hành các điều Chúa truyền. Truyền giáo là tất cả như thế đó. Không có ba yếu tố này, công việc ấy không đầy đủ, và chẳng một yếu tố nào trong ba làm nên được công chuyện bởi lẽ “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Quả thực, đây là một thách đố đặt ra cho Giáo Hội, vì rằng mọi dân tộc đều có quyền chia sẻ mầu nhiệm Phục sinh, đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu để được biến đổi và trở nên mới. Như thế các dân tộc ấy cũng hội nhập vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Qua việc truyền giáo của các tông đồ, Đức Giêsu vẫn theo đuổi công việc Người đã khởi sự trong mầu nhiệm Phục sinh của Người; Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Ta còn sợ hãi gì nữa, một khi có Đức Giêsu phục sinh đang ở cùng chúng ta.

*2. “Là dịp để ta canh tân lại quyết định làm môn đệ trung thành của Đức Kitô” “Célébrer” (Nguyện san của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ Phụng vụ) số 258 trang 42.

“Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Emmanuel”, vẫn là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.Việc Người-lên-trời không hẳn là một sự lìa bỏ. Phải học hỏi để nhận ra điều này dầu không trông thấy Người như các môn đệ đã thấy xưa. Chúa lên trời nhắc nhở ta sống thân phận của một người tin và yêu: tin rằng Người vẫn đang có mặt, và thực hành yêu thương để làm cho Người được hiện diện. Lễ này phải là dịp để ta canh tân lại quyết định trở thành những môn đệ trung tín của Đức Kitô: những môn đệ vững tâm vì Người vẫn có mặt bên ta “mọi ngày”, những môn đệ sẵn sàng đáp lại tiếng gọi sai đi truyền giáo cho “muôn dân” của thời đại hôm nay”.

*3. “Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” J.Rader-makers chú giải thêm cho bài viết ở trên.

Đức Giêsu Nagiarét xuất thân.

Từ miền Galilê của chư dân,

Đất thuộc Zabulon và Néptali

Người là ánh sáng bừng lên

Soi cho dân ngồi trong tăm tối;

Người là Quý Tử chí ái

Của Ngôi Thánh Phụ muôn đời quang vinh.

Để tha tội lỗi môn dân

Người đành hiến máu để làm Giao ước;

Người đã chỗi dậy ngày thứ ba

Làm cho muôn dân trở thành môn đệ.

Người là Emmanuel vẫn luôn có mặt,

Người còn đi trước các anh em

Đến những Galilê của mọi miền trái đất.

home Mục lục Lưu trữ