Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1363943

NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠI

Niềm hy vọng của nhân loại

(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)

"Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc 1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn "Phú ông và Lazarô."

Hai con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.

Thế giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh "lau tay" đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn "có lòng" hơn phú ông khi không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến liếm các mụn ghẻ cho anh ta.

Thời xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh "lau tay" mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.

Nhưng rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.

Ân phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật "ăn mày" trong dụ ngôn trên. Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham--cha những kẻ tin.

Còn người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?

Thái độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì cả cho kẻ khốn cùng.

Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được.

Người nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.

Một nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:

Một là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.

Hai là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.

Hoả ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: "Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).

Nếu tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời cho tôi.

Dụ ngôn "Phú ông và Lazarô" là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.

Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: "Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực cho việc phán xét sẽ được đưa ra."

"Chúng ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và Ngài sẽ nói: "Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."

"Kẻ bé mọn" không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao ban.

Thế nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.

 

13. Có một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

(Trích dẫn từ 'Manna')

Suy Niệm

Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.

Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.

Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.

Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.

Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.

Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.

Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.

Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.

Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do chính con người đã tạo ra từ đời này.

Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.

Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.

Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.

Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.

Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.

Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.

Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.

Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.

Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.

Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.

Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.

Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không?

Nếu bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo trên thế giới không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

14. Hai khuôn mặt trái ngược nhau

(Trích dẫn từ 'Manna' – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.

Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.

Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu "hợp pháp", đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.

Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.

Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Gợi Ý Chia Sẻ

Con người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?

Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.

Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

 

15. Môi trường đức tin – Achille Degeest

(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')

Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không –chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.

1) Tự do của tâm hồn.

Đây là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của đức công bằng. Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con người thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.

2) Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận.

Sự thể tiến trình mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ trong ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết. Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.

3) Đức tin sống động thì có tình yêu thương.

Luật truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.

 

16. Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn

(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)

Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: "Tôi là ai trong dụ ngôn đó?". Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện không có tên (ông ta có biệt danh là "Dives" từ này trong từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì mình đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không có mà ăn.

Cũng có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng liêng chứ không theo một cách thể lý.

Không có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.

Thiên Chúa đã thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao, là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của Ngài đã đổ ra vì chúng ta.

Cách thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông nhưng chúng ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?

Nhưng không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: "Lạy Cha, chúng con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ". Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.

 

17. Giàu có và nghèo khó – McCarthy

Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.

Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.

Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.

Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.

Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.

Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.

- Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.

- Phải. Ông ta đáp.

- Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?

- Nói thật với chú bé là tôi không biết.

- Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?

- Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.

- Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?

- Đúng thế!

- Tôi ước gì tôi...

Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp "Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế". Nhưng cậu bé lại nói: "Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế".

Và ông ta kết luận: "Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang hơn mình... Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi".

Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.

Ông không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.

Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. "Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến" (Mẹ Têrêxa).

Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: "Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?". "Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi". Câu trả lời là như thế.

 

18. Bác ái bắt đầu từ nhà mình - McCarthy

Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.

Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.

Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?

Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. "Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!", ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.

Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.

Mẹ Têrêxa nói: "Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những "triệu" người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi".

Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: "Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.

"Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế".

Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: "Xin thầy cho con viên ngọc quý".

- Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.

- Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi".

Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. "Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến", ông nói và đưa nó cho người dân làng. "Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó".

Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: "Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế".

Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.

 

19. Chú giải của R. Gutzwiller

KHÓ NGHÈO và SANG GIÀU.

Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề 'hư mất' kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.

Ở đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói 'Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn' cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: 'Nhưng không ai thèm cho'. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.

Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.

Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.

Hai nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ.

Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.

Cho nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng Abraham cũng thế...

Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.

Giải thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ... Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.

Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, 'đã làm được một cái gì' và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.

Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.

'Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng'. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài... Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.

Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.

 

20. Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?

Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:

"Người nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta chôn ông".

Chúng ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có "xấu xa", nhưng đơn giản chỉ là "một người giàu có" và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: "Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống".

Người giàu có không "thấy" Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không "thấy" gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói: "Chúng ta đâu có thấy gì!". Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.

Đối với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta "thấy" Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng "hạnh phúc" trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua "vực thẳm lớn lao" được.

Vì không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh em của ông.

- "Lạy tổ phụ Abraham,... xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!", ông nói với Abraham như thế.

Abraham nói: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó".

Người giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà .... Cần phải khua chiêng gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.

- Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.

Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:

Bài học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là "mũi nhọn". Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua Abraham: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ".

Thậm chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn...

- Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ.

Tôi phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?

 

21. Dại dột

Bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số phận của nhà hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời này, người phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi ngày, sống trụy lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái hoài, một người hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước cổng nhà người giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.

Hai nhân vật này không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và người giàu cũng chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần đến đưa người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Trước hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa. Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ.

Ngược lại, nghèo khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể làm cho người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp, láo xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách Chúa, coi nhẹ linh hồn mình... Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết bao người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham lam đủ thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó, không phải nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần, có tâm hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy: công phúc của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.

Đàng khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên nước trời.

Ngược lại, ai khư khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên Chúa xét đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ cho ông Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ được thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên ông đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng lo lắng quá mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn chán, vì chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai, Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

home Mục lục Lưu trữ