Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1362365

NIỀM TIN BỪNG CHÁY

NIỀM TIN BỪNG CHÁY

 

(Suy niệm của Br Philip-Minh Khả, CRM)

Trong ký ức chúng ta có lẽ không quên biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế tại New York năm vừa rồi. Hai tòa nhà cao 102 tầng đã sụp đổ sau hơn một tiếng đồng hồ bốc cháy bởi hai chiếc máy bay dân sự do đám khủng bố điều khiển đâm vào, mang theo vận mạng một lúc mấy ngàn người trong các tòa nhà đó. Cả nước Mỹ bàng hoàng và đau đớn trong biến cố này. Đứng trước biến cố này, trong sự bàng hoàng, thương tiếc, đau khổ và tuyệt vọng, niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa nơi nhiều người bị lung lay. Nhiều người đã phải thốt lên rằng Thiên Chúa đâu rồi? Tại sao Chúa không ngăn ngừa khỏi xảy ra sự dữ này?

Câu hỏi tương tự ở trên cũng được thấy trong Tin mừng Gioan hôm nay. Martha và Maria trong cơn đau khổ mất em là Lazarô, gặp Chúa Giêsu, hai chị em vừa khóc, vừa trách Chúa rằng Chúa ơi, Chúa ở đâu khi em con đang bệnh; nếu Chúa ở đây thì em con đâu có chết. Đây có lẽ là tâm lý chung của con người khi gặp sự đau khổ. Trong đêm tối mịt mù của khổ đau, niềm tin nơi Thiên Chúa của chúng ta bị lung lay. Chúng ta cảm thấy hoài nghi sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.

Tin mừng Gioan hôm nay cho chúng ta thấy trong Martha và Maria đang đau khổ, Chúa Giêsu đến bên cạnh họ. Thánh Gioan trình bày ở đây một Thiên Chúa không xa vời ở nơi đâu, nhưng rất gần gũi với con người. Chúa Giêsu mang đến cho họ niềm an ủi. Chúa Giêsu thông cảm nỗi đau khổ của họ. Trong tâm tình xót thương, Người mủi lòng và khóc thương. Và chính niềm tin vào Thiên Chúa nơi Martha và Maria bừng sáng lên khi họ cảm nhận Chúa Giêsu ở bên họ và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Người.

Với niềm tin vào Thiên Chúa, chúng ta tin rằng trên vạn nẻo đường của cuộc sống mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta. Trong an vui hạnh phúc, trong thất bại khổ đau, trong hân hoan hay đau buồn, trong mạnh khỏe hay bệnh tật, Thiên Chúa luôn bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Thật ra không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Ngài luôn theo đuổi, kiếm tìm và ở bên cạnh con người như trường hợp của chị em Martha, Maria và Lazarô. Chúa Giêsu hằng luôn để ý tới họ và trong cơn đau khổ nhất khi Lazarô chết, Chúa Giêsu đã tìm đến bên cạnh họ để an ủi.

Trong cuộc sống vật lộn với công ăn việc làm để tìm miếng cơm manh áo, với biết bao buồn vui xảy ra đến trong cuộc đời, với những cái chết vì bệnh ung thư hoặc bị tai nạn xe hơi hay vì một lý do không may nào xảy đến, chúng ta luôn luôn được mời gọi để nhìn lên trên các biến cố ấy trong tương quan với đời sống vĩnh cửu, với niềm tin tôn giáo. Đây là cách duy nhất để chúng ta nhận thức được ý nghĩa và giá trị đích thực của cuộc sống.

Biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế là một sự dữ, là đêm tối đức tin cho nhiều người. Tuy nhiên, qua biến cố này, niềm tin được bừng sáng nơi nhiều người. Nhiều người nhận xét rằng, người ta cầu nguyện với Thiên Chúa nhiều hơn. Nhiều người xưa nay có thái độ bàng quan tới mọi người, nay tỏ thái độ yêu thương, chia sẻ. Niềm tin bừng sáng! Trong câu chuyện Lazarô sống lại, Martha và Maria trong đau khổ đã nhận được tình Chúa Giêsu và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Ngài. Niềm tin bừng sáng! Còn mỗi người chúng ta, cái nhìn, thái độ và niềm tin chúng ta thế nào đối với Thiên Chúa trong các biến cố xảy ra trong đời chúng ta?

 

40.Gieo mầm sự sống – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu Phi và từ một số quốc gia đang đổ vào Việt Nam dưới rất nhiều hình thức. Một điều khó khăn cho những người có trách nhiệm đó là ma túy ngày nay rất đa dạng và rất mới, còn hành động của những kẻ gieo rắc cái chết trắng thì hết sức tinh vi và là một mạng lưới xuyên quốc gia. Những chất ma túy này hằng ngày đang gieo bao nhiêu sự chết chóc cho người Việt, gây nên một sự bạc nhược uể oải cho lớp trẻ, và ăn mòn tuổi trẻ của nhiều người. Bên cạnh những cái chết trắng còn có nhiều người đang gieo cái chết âm thầm cho người khác qua việc sản xuất thực phẩm không an toàn, hoặc gieo rắc những hình ảnh những lối hành xử giết chóc vào trong tâm hồn người khác qua phim ảnh bạo lực sách báo với lối sống thù hằn. Ở Việt Nam còn có cái chết mà các nơi khác rất ít có, đó là cái chết đường phố: những hung thần trên đường phố tại Việt Nam mỗi tháng cũng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, mỗi năm hơn 10 ngàn người chết vì tai nạn giao thông, và cũng có từng đó người thương tật.

Thưa quý OBACE, xã hội và thế giới quanh ta dường như càng ngày càng được bao trùm bởi sự chết chóc, lo âu và sợ hãi như thế, thì Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Đức Giêsu chính là Đấng đã sống lại từ cõi chết và đem đến sự sống cho nhân loại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho anh Lazarô được sống lại hôm nay muốn nói lên điều đó.

Cái chết là đau khổ tột cùng của con người, đau khổ cho cả người chết và người còn sống. Khi đối diện với cái chết con người lo âu sợ hãi, sợ hãi vì họ phải đối đầu với cái chết một mình, cảm thấy cô đơn không có ai đi cùng. Đối diện với cái chết người ta sợ hãi là vì người ta không biết bên kia cánh cửa sự chết điều gì sẽ xảy ra cho họ, và họ sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Chính vì thế mà ai cũng muốn kéo dài sự sống. Bên cạnh đó cái chết còn để lại cho người sống một nỗi đau đớn mất mát vì phải vĩnh viễn chia tay với người thân yêu. Vì những lý do đó mà cái chết luôn là sự ám ảnh sợ hãi cho con người.

Trong cái nhìn đó, chúng ta mới thấy hoàn cảnh đau thương của gia đình Matta và Maria, họ chỉ có ba chị em, mà giờ đây mất đi người em út. Đọc câu chuyện chúng ta thấy cái chết của Lazarô đã làm cho tinh thần của hai người chị xuống dốc trầm trọng và đức tin của họ bị chao đảo và thử thách nặng nề. Trước đây, họ vẫn đón tiếp Chúa Giêsu như một vị Thầy quyền năng, và chắc chắn đã nhiều lần hai cô cũng chứng kiến việc Chúa làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, tuy nhiên lần này khi Lazarô bị bệnh nặng, báo tin cho Thầy Giêsu, thì Thầy đã không đến ngay, vì thế hai cô rơi vào thất vọng, nên khi Đức Giêsu vừa đến thì cô Matta đã trách Chúa trong tuyệt vọng: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.

Dù là trách Chúa, nhưng cô vẫn còn một chút hy vọng khi cô nói: Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, thì Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu đã không nỡ để cho hy vọng cuối cùng ở nơi cô bị vụt tắt nên Ngài đã nâng đỡ đức tin cho cô khi nói với cô: Em con sẽ sống lại. Tuy nhiên cô Matta vẫn chưa vượt qua được sự cản trở tự nhiên và sự suy nghĩ của con người, nên cô cũng chỉ nói lên niềm tin vào sự sống đời sau mà thôi, chứ cô không tin rằng Đức Giêsu có thể làm cho em cô sống lại ngay bây giờ, vì thế cô nói: Vâng con biết đến ngày tận thế thì em con sẽ sống lại.

Chúa Giêsu đã muốn cho cô Matta đi một bước xa hơn trong niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, tin Ngài có thể làm được tất cả, nên Ngài mới giải thích cho Matta: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Giải thích điều đó, Chúa Giêsu muốn cô Matta tuyên xưng niềm tin của mình khi Ngài hỏi cô: Con có tin như thế không? Lúc này cô Matta đã vâng phục hoàn toàn không cần phải giải thích thêm, cô đã tuyên xưng: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Với lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu, là Đấng Cứu Thế, và còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, có nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, Đấng có quyền năng của một vị Thiên Chúa.

Mặc dù hoàn toàn tin tưởng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, nhưng cô Matta, chị của người chết vẫn cứ để cho sự chết ràng buộc mình, cho nên khi Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người khiêng tảng đá lấp cửa mộ ra, thì cô Matta đã can ngăn mọi người: Thưa Thầy, không thể được, vì đã bốn ngày rồi. Một lần nữa Đức Giêsu lại nâng đỡ đức tin cho cô Matta: Nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa. Bằng một mệnh lệnh: Lazarô hãy ra đây, người chết liền bước ra khỏi mồ, trên người còn quấn những khăn liệm. Chứng kiến phép lạ này nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.

Đức Giêsu chính là Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Ngài là Đấng đã mang lấy thân phận của con người đã chấp nhận cái chết và đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chỗi dậy từ cõi chết để đem đến cho nhân loại sư sống, những ai tin Ngài và đón nhận Ngài thì đón nhận được sự sống Ngài ban tặng. Việc hồi sinh cho Lazarô là một minh chứng về quyền năng của Thiên Chúa, tuy nhiên Lazarô vẫn chỉ hồi sinh để sống lại cuộc sống cũ, còn những người tin vào Đức Giêsu, thì đón nhận được một sức sống mới hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống cũ. Sức sống mới này là sức sống của Thần Khí của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trao ban sau khi Người từ cõi chết sống lại.

Thần Khí sự sống mà Đức Giêsu ban tặng đã được tiên tri Ezekiel nhắc đến khi tiên báo rằng: Thiên Chúa phán: Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Thánh Phaolô đã hiểu điều này, đã tin và đã nói cho cộng đoàn Rôma rằng: Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới.

Thưa quý OBACE, chúng ta vẫn phải đối diện với cái chết về thể xác, nhưng đối với những người tin vào Đức Giêsu, thì cái chết không còn là nỗi sợ hãi kinh hoàng nữa, vì chúng ta tin vào lời Chúa hứa hôm nay: Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết nữa. Do đó với người Kitô hữu cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng, là ngưỡng cửa bước qua để chúng ta được vào hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa.

Tuy nhiên chúng ta không chỉ mong đợi sự sống đời đời mai sau, nhưng ngay hôm nay, nhờ được dìm vào dòng nước rửa tội, cùng dìm vào cái chết của Đức Giêsu Kitô, thì ngay hôm nay, lúc này, chúng ta đang đón nhận được sự sống Ngài trao ban. Sự sống ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta. Như thế, theo thánh Phaolô, chúng ta không thể để mình sống theo con người cũ, không thể để mình buông theo lối sống của xác thịt và của thế gian, nhưng phải để cho Thánh Thần chi phối và dẫn dắt, và chỉ những ai để cho Thánh Thần dẫn dắt thì mới thuộc về Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận sức sống của Thánh Thần trong ngày rửa tội và được tăng cường mạnh mẽ trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, tuy nhiên, nhiều người đã bỏ quên sự hiện diện của Thánh Thần, đã để cho mầm sống mới của Đức Kitô bị thui chột bởi cuộc sống bê tha lười biếng.

Một lần nữa lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu, để nhờ tin vào Ngài, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần là sự sống của Ngài, và được sống. Hãy đem sự sống của Đức Giêsu vào trong đời sống và trong gia đình của mình, hãy lắng nghe và vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống, giúp chúng ta điều chỉnh lại nếp sống để cho gia đình mỗi ngày thêm hạnh phúc hơn. Hãy cùng nhau tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, và dám phó thác cuộc sống và gia đình cho Ngài, Ngài sẽ canh tân đổi mới cuộc sống gia đình chúng ta.

Nhiều người ngày nay đang bị chôn vùi trong tội lỗi, trong cái tôi ích kỷ lười biếng và tự mãn của mình, nhiều người trẻ thì bị những dây băng là các thứ nghiện ngập đam mê trói buộc như games, internet, phim ảnh, sách báo xấu, ma túy, cờ bạc, cá độ,… khiến họ nằm lỳ trong tình trạng xa Chúa, nhiều bạn khác vì bị nhồi nhét bởi những tư tưởng vô thần, những phong trào chống phá bôi xấu Giáo Hội, nó như nấm mồ chôn chặt cuộc sống và suy nghĩ của họ. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu để lăn tảng đá xấu xa đó ra khỏi cuộc đời, hãy giúp nhiều bạn trẻ tháo cởi khỏi những sợi dây băng chết chóc ràng buộc đó, để giúp họ có thể đến với Đức Giêsu và đón nhận được Thần Khí sự sống của Ngài. Amen.

 

41.Chôn cất – Lm Vũ Đình Tường

Không phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không an táng. Không ai an táng một tư tưởng ngay cả có thời nó được coi là vĩ đại. Không ai an táng một mối tình đứt quãng giữa đường. Chẳng ai an táng cái chết của một niềm tin, dù là niềm tin vào Đức Kitô.

Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô ban nguồn sống mới cho các tông đồ và tăng thêm niềm tin cho những người từng quen biết Lazarô. Chính những người này thắc mắc vào quyền năng Thiên Chúa. Họ hỏi nhau ông Jêsu có thể mở mắt cho người mù mà không thể cứu sống được bạn mình sao. (c,38)

Đức Kitô nhắc cho chị em Maria và Martha biết về quyền năng của Thiên Chúa khi Ngài phán bảo các cô Ngài là Thiên Chúa của sự sống. Mary và Martha tin vào quyền năng của Thiên Chúa vượt lên khỏi sự chết, đau khổ và bệnh tật và các cô, dù không hiểu hay hiểu rất mù mờ vẫn đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta hiểu một cách cặn kẽ. Có lẽ điều cốt yếu cần học hỏi để tin nhiều hơn là học biết tình yêu Chúa dành cho con người cao xa, vượt khỏi tầm hiểu biết của ta.

Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa. Mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa chính là làm sáng Danh Chúa. Đức Kitô cho biết sức mạnh tình yêu Chúa lớn hơn sự chết và Danh Chúa cả sáng biểu lộ qua tình thương bao la Ngài dành cho nhân loại. Đức Kitô đánh bại sự chết cho thấy ngay cả ‘thần chết’ cũng phải quy phục Ngài. Chết là chặng đường ta đi qua trước khi bước vào ngưỡng cửa Phục Sinh vinh quang.

Mary và Martha tin vào quyền năng Chúa nhưng vẫn mù mờ thắc mắc tại sao Thiên Chúa chậm chạp trong việc đáp lại lời ta cầu xin. Cả hai cô, dù không bàn với nhau trước nói với Đức Kitô cùng một câu. Nếu Thầy đến sớm thì em con sẽ không chết (c.21, 32)

Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, không phải chương trình của ta. Khi nào Ngài đáp lời ta cầu xin là do Ngài chọn lựa thời gian, địa điểm. Việc chọn lựa này đặt căn bản trong việc thực hiện í Chúa Cha như Ngài từng phán Ta đến không phải để làm theo í Ta mà là làm theo í của Chúa Cha. Khi nào thỉ đến giờ Ngài thực hiện điều ta xin là quyền của riêng Ngài. Tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó khi Đức trinh nữ xin Ngài giúp gia chủ vì giữa tiệc hết rượu. Ngài đáp: Giờ Ta chưa đến.

Hai chị em Mary and Martha tin tưởng Đức Kitô sẽ cho Lazarô sống lại và ngày đó sẽ xảy ra trong ngày sau hết. Ngày sau hết khi nào chỉ mình Thiên Chúa định đoạt. Chúng ta cũng không quên Thiên Chúa làm chủ sự sống và Ngài làm chủ cả thời gian. Đối với chúng ta có sớm, có muộn vì chúng ta ảnh hưởng bởi thời gian. Thiên Chúa không ảnh hưởng bởi thời gian nên không có sớm, cũng không có muộn, cũng không có tương lai. Đối với Ngài thời gian luôn là hiện tại. Liên kết với Đức Kitô để được luôn sống trong hiện tại và ơn Phục Sinh thuộc về Ngài.

Hành trình đi từ cõi chết đến sự sống là hành trình mỗi người chúng ta đều trải qua. Chết về phần thân xác để sống vinh quang phần tâm linh. Hành trình này gây đau khổ, xót thương như hai chị em Maria và Martha đã trải qua trước khi đón nhận sự sống mới của Lazarô. với đức tin vào Đức Kitô chúng ta tin rằng chết thân xác chỉ là biến đổi từ xác phàm trước khi mặc lấy thân xác vinh hiển. Chết thân xác chỉ là tạm bợ vì tình yêu Chúa cao vời vĩ đại hơn tội lỗi con người.

 

42.Khóc.

Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào.

Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng.

Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô.

Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp, Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối.

Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm.

Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo.

Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau, nhất là đối với các bà các cô.

Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác.

Trong đời này, người ta thường khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn, khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì họ.

Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó.

Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha.

 

43.Từng bước – Lm Vũ Đình Tường

Ba tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samari tại bờ giếng. Nơi đó Đức Kitô xin chị nước uống. Với lòng thành chị nhận ra Ngài là Đấng ban nước hằng sống và chị đã nhận được nước trường sinh.

Tuần qua lại nghe chuyện Đức Kitô mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Mắt thể xác anh được sáng và mắt đức tin của anh còn sáng hơn. Nhờ mắt đức tin mà anh nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian.

Tuần này chúng ta nghe về việc Đức Kitô làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết.

Bằng nhiều dụ ngôn khác nhau Đức Kitô dẫn chúng ta đi từng bước, giải thích về tình yêu Thiên Chúa và sự sống đời sau - Ban nước trường sinh cho người phụ nữ thành Samari- mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh và ban sự sống cho Lazaro là chuẩn bị cho chúng ta hiểu về sự chết và Phục Sinh của chính Ngài.

Các dụ ngôn trên cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự chết. Vì yêu mà Đức Kitô hiến thân ban sự sống cho nhân loại.

Hiến mng

Đức Kitô từ bỏ vùng đang rao giảng để thực hiện điều rao giảng. Đây là chuyến đi định mệnh. Đức Kitô chết để ta được sống. Nguyên nhân Đức Kitô chết vì Ngài yêu thương. Thí mạng sống vì đàn chiên. Con người muốn Ngài chết vì danh Ngài vang dội. Phúc Âm ghi lại án tử bằng câu.

Từ ngày đó họ quyết định giết Đức Kitô (Ga 11,53)

Thì ra người ta giết nhau, thanh trừng nhau vì ghen. Sợ danh người khác lấn át danh mình. Muốn hơn tiếng phải thanh trừng, khai trừ. Án tử cho Đức Kitô đã định sẵn. Không còn phải thắc mắc. Nếu có chỉ là thời gian, tìm dịp thuận tiện để thi hành. Đức Kitô chết vì thực hiện điều rao giảng: bác ái, yêu thương, thứ tha. Vì bác ái bị người thù. Vì yêu người bị người ghét. Vì tha thứ bị người khai trừ. Vì sao? Vì nhân đức nghịch với khuynh hướng, lối sống và cách xử thế thế gian nên thế gian ghét những gì không thuộc về chúng. Bác ái, yêu thương, tha thứ thành trò cười cho thiên hạ chế diễu. Thể hiện qua lời móc méo của kẻ trộm và viên trưởng lãnh binh. Trước khi xỏ lưỡi đòng thâu tim, họ đã xiên lưỡi đòng tâm lí.

Hắn cứu được người khác mà không cứu được mình. (Lc 23,35)

Thiên Chúa không đáp lại lời châm biếm nhưng biến lời chế diễu thành lời rao giảng, tuyên xưng. Lời xỏ xiên kia xác nhận Đức Kitô ban sự sống cho người khác. Tự thú Ngài không sống cho chính Ngài nhưng sống cho tha nhân và phó mình làm giá chuộc muôn dân. Từ khởi nguyên ý định xuống thế cứu chuộc không hề lay chuyển. Ngài xuống trần gian không phải để làm theo ý riêng nhưng làm theo ý Chúa Cha. Mà ý Chúa Cha là muốn mọi người nhận ơn cứu rỗi. Đức Kitô thể hiện ý Chúa Cha, hoàn tất một cách trọn vẹn. Lời cuối trên thập tự thể hiện điều này: Mọi sự đã hoàn tất – Nói xong, Ngài tắt thở.

Bn ca Thiên Chúa

Mở đầu bằng hứa ban nước trường sinh cho người phụ nữ Samari tại bờ giếng. Một người dân ngoại. Đức Kitô còn kể dụ ngôn người dân ngoại thành Samarita nhân lành, cứu người bị nạn dọc đường, đưa vào quán trọ nhờ săn sóc (Lc 10,25-37). Câu hỏi đặt ra cho mỗi người chúng ta người dân ngoại nhân lành đó là ai?

Là chính Đức Kitô và mỗi người trong chúng ta? Đối với lãnh binh đền thờ và thượng tế Đức Kitô là dân ngoại. Tệ hơn nữa còn bị quỉ ám.

Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỉ ám thì chẳng đúng lắm sao (Ga 8,48)

Vì mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh mà họ kết án Ngài

Chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi (Ga 9,24)

Vì ban sự sống cho bạn thân là Lazarô nên họ chủ trương giết Ngài. Ai là bạn hữu của Ngài? Câu trả lời thật rõ

Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dậy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu (Ga 15,14)

Để trở thành bạn Đức Kitô người đó cần nhận tội, sống yêu thương, tha thứ và thực thi đức ái. Khiêm nhường thú nhận tội lỗi, sống bác ái, yêu thương biến chúng ta thành bạn hữu Đức Kitô.Tình bạn không dành cho riêng ai mà trải dài, vươn rộng cho tất cả những ai tin vào Ngài

Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,26)

Tin vào Đức Kitô sẽ nghiệm thấy chết thể lý là biến đổi để bước vào sự sống trường sinh. Sự sống đó không cần phải đợi đến ngày kẻ chết sống lại mà khởi đầu ngay khi hồn lìa khỏi xác. Đây chính là ý nghĩa câu ‘sẽ không bao giờ phải chết’. Hồn lìa khỏi xác để đoàn tụ cùng Chúa, thể hiện điều Đức Kitô ước mong trong lời nguyện hiến tế

Ly Cha, Con mun rng Con đâu thì nhng người Cha đã ban cho Con cũng đó vi Con (Ga 17,24)

Chúng ta cầu xin sống tinh thần khiêm nhường, thú tội, nhận biết, tin theo Đức Kitô. Sống theo lời Chúa dậy, đầy nhân hậu, giầu bác ái, nhiều tình thương, chậm bất bình và hay tha thứ.

 

44.Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" (Ga 11,8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Ladarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì "thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng: "nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21)

"Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52).

"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngườ, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

 

45.Chúa Nhật 5 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

AI TIN VÀO ĐỨC KITÔ THÌ DÙ ĐÃ CHẾT CŨNG SẼ ĐƯỢC SỐNG

Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại. Ông đã chết bốn ngày rồi, xác đã bốc mùi, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm cho ông được sống lại. Nhưng thử hỏi Lazarô có sống mãi không. Lazaro sống lại. Rồi sau đó ông sống được thêm 20, 30, 40 năm nữa rồi ông cũng chết, chứ không sống mãi!

Vậy thì, chúng ta hãy thử tìm hiểu ý nghĩa về niềm tin vào Đức Kitô và về sự sống lại trong bài Tin Mừng là như thế nào, trong đó Matta chị của Lazzarô, đã tỏ  niềm tin vào sống lại: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại ngày sau hết" (Ga 11,24).

Thật ra, tin rằng mình sẽ được sống lại ngày sau hết, cũng chưa phải là điều lạ lùng hay đặc biệt, mà chỉ có Matta tin. Cũng có nhiều người khác, ở những tôn giáo khác họ vẫn tin vào sự sống đời sau, như trong dân gian tin có thiên đàng thưởng kẻ lành, hay trên thiên đình có tiên có  Phật. Họ tin rằng có âm phủ địa ngục phạt những kẻ gian ác, có những chảo dầu sôi sùng sục và những con quỷ dữ cầm những chỉa ba ném người ác vào đó để hành hình…

Điều quan trọng mà Tin Mừng kêu gọi không phải chỉ là tin chung chung vào cuộc sống đời sau, hay thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ như vậy, nhưng là tin vào chính Đức Kitô, vào chính con người cụ thể của Ngài. Ngài nói:

"Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Thày thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" và Chúa Giêsu hỏi: "Chị có tin như thế không?". Matta đã thưa: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian" (Ga 11, 25-26).

Matta đã tuyên xưng quá tuyệt vời! Đây mới là điều đặc biệt và trổi vượt của niềm tin nơi Matta. Lúc ấy chưa chắc các môn đệ hay các Tông đồ của Chúa Giêsu lại có thể tuyên xưng như vậy. Matta không những tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô mà còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu để cứu Dân Do Thái thì còn có thể tuyên xưng được, nhưng tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa quả là một điều quá sức tưởng tượng đối với người Do Thái.

Như chúng ta sẽ thấy, chính Chúa Giêsu bị lên án tử hình vì Ngài nhận mình là Con Thiên Chúa. Trong cuộc xử án, vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!" Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26,65-68).

Đến đây chúng ta tự hỏi, vậy tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong bối cảnh này có ý nghĩa gì?

Có thể nói, đó là tin vào thập giá của Ngài, tin vào một điều vượt quá lý trí của con người bình thường. Vì khi Ngài vừa xác nhận mình là Con Thiên Chúa thì lập tức Ngài bị khạc nhổ vào mặt và bị đấm đánh, tát vào mặt! Sao Con Thiên Chúa lại lạ lùng như vậy, bị hành hạ sỉ nhục như vậy mà không phản ứng lại!

Ngài vừa xác nhận mình là sự sống và là sự sống lại với Matta và Ngài cũng đã cho Lazaro sống lại, nhưng rồi chính Ngài lại bị chết thảm thương trên thập giá. Đây quả là một điều quá phi lý đối với lý trí bình thường, vì vừa xác nhận mình là sự sống thì lại bị người ta giết chết một cách dễ dàng.

Tin vào Đức Giêsu là Kitô là Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải tin vào giá trị của những hành vi xem ra trái với lý trí thông thường, hay ngược đời đó.

Ngày xưa, thánh Concorđiô bị giam vì đạo. Trong buổi xử án, quan toà hỏi: "Ông là ai ? Và người ta gọi ông thế nào?"

- "Tên tôi là Kytô-hữu, và người ta gọi tôi là Kytô-hữu".

Quan toà tức tối: "Ta không nói chơi đâu. Ta không hỏi ngươi theo đạo nào. Ta chỉ muốn biết tên ngươi mà thôi."

Thánh Concordio vẫn thong thả trả lời: - "Tôi đã nói rồi. Tôi là người Kytô-hữu, Tên tôi do Chúa Kitô mà ra. Vì thế, tôi thuộc về Ngài và sống chết, tôi muốn phụng sự Ngài."

Quan liền bắt thánh Concorđiô chịu những cực hình ghê rợn. Thánh Concorđiô không nhượng bộ. Trước khi tắt thở, ngài còn nói lên một lần cuối cùng: "Tôi là người Kytô-hữu", nghĩa là, tôi thuộc về Đức Kitô.

Thánh Phalô trong thư Roma dạy: "Ai không có thần Khí Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô. Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dẫu cho thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống” (Rm37, 9-10). Tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là dám hy sinh cho tha nhân, như hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt. Tin vào Đức Kitô là sẵn sàng chịu chết đi cho thế gian, để sống trong Thần Khí Chúa.

 

46.Chết? – Lm Vũ Xuân Hạnh

Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu. Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa. Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động. Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ".

Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt? Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại. Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay. Thử hỏi lời Chúa Giêsu: "Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" có là lời chân thật? Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại "không chết bao giờ"?

Trong một một bài viết mang tên Cõi đi về, mở đầu cho những lời ngậm ngùi tiếc xót một Chủng sinh đã an giấc, linh mục Giuse Nguyễn Hữu An không giấu nổi niềm đau của mình: "Mọi đám tang đều gieo vào lòng tôi một nỗi buồn tê tái". Nhất là nhìn cảnh Thầy - "một thanh niên đang tuổi xuân ra đi mà mẹ già mắt mờ, lưng còng, tóc bạc đưa tiễn", thì "chỉ có đau thương, chỉ có buồn sầu và tiếng khóc, chỉ có nghẹn ngào và nước mắt" là đúng lắm. Chết là một mất mát. Lứa tuổi cao niên, chết vẫn thấy đời người dang dở, lứa tuổi xuân thì còn dang dở biết bao nhiêu!

Cái chết của Lazarô, người bạn của Chúa Giêsu, người được gọi là "người Thầy yêu", không chỉ làm cho hai chị của mình và những người quen biết khóc thương, mà còn làm cho Chúa Giêsu, dù biết rằng sẽ cho anh sống lại, cũng đã "thổn thức và xúc động". Điều đó càng làm nổi bật cái bi, cái khổ của nỗi chết.

Nếu chỉ suy nghĩ như thế thôi, lời của Chúa Giêsu: "Ai tin Ta...", đúng là không xác đáng.

Nhưng không đúng! Lời ấy phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN. Chúa không hề bảo rằng: "Ai suy nghĩ về Ta...", mà lại nói rằng: "Ai tin Ta...". Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm. Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng. Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống "không chết bao giờ".

Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết. Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát. Vì sao lại bi đát? Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi. Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể..., mà là cái chết. Chấm dứt tất cả. Giết chết tất cả. Bị cướp mất tất cả.

Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất. Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với. Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn. Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng. Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn. Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì. Rõ ràng bi đát, rất bi đát...

Nhưng người Kitô hữu có đức tin. Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ. Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật. Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu. Một sự sống không có sự chết. Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Martha, cũng là nói với bạn và tôi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ".

Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống. Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời. Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai. Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu.

Bạn và tôi có quyền hy vọng điều mà Chúa đã hứa: "Ai tin Ta sẽ không chết đời đời"!!

Đức tin là chìa khóa mở cửa cho niềm hy vọng của chúng ta.

 

47.Chúa Nhật 5 Mùa Chay

(Chia sẻ lương thực Lời Chúa cho những ai không thể tham dự Thánh Lễ trực tiếp - Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

Đứng trước Đại Dịch Covid-19, biết bao nhiêu người bị lây nhiễm, bị bệnh và qua đời; con người trong xã hội ngày nay, đã và đang làm gì trước thảm họa đau thương này. Các nhà chức trách, các đội ngũ y bác sỹ và tất cả mọi người đã và đang tích cực chung tay cộng tác, hầu để tìm mọi cách tốt nhất có thể giúp đỡ anh chị em đồng loại của mình. Thế nhưng, chúng ta thấy, sức của con người thật có những giới hạn khi đối diện với đại thảm họa này.

Trong hoàn cảnh này, Bài tin mừng của Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay giúp và soi sáng cho chúng ta. Tin mừng thuật lại câu chuyện phép lạ của Chúa Giêsu trước cái chết của Lazarô; Chúng ta biết rằng theo tường thuật của Gioan, phép lạ cho Lazarô sống lại từ cỏi chết là phép lạ cuối cùng của Chúa Giêsu làm, trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó của chính mình. Như vậy, chắc chắn Chúa Giêsu cũng ý thức được về chính cuộc tử nạn và cái chết của mình sắp xảy ra.

Khi đối diện với người bạn thân Lazarô đã chết, Chúa Giêsu đã làm gi? Thực ra, Chúa Giêsu đã biết tin khi Lazaro sắp chết. Theo cách của con người, đáng lẽ với người bạn thân Lazarô, Chúa phải thật vội vàng để chạy đến Bêtania, để thăm hay cứu chữa Lazarô, hay ít ra cũng để gặp người bạn lần cuối. Nhưng không, tin mừng thuật lại, “khi biết tin, Chúa vẫn chưa đến ngay”. Có phải Ngài muốn trì hoãn, chần chừ, hay không quan tâm? Không phải vậy, Chúa Giêsu biết rõ và rất ý thức về cái chết sắp xãy ra cho Lazarô, và Chúa Giêsu đã muốn để xãy ra và cho Thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, và cho Thánh ý của Chúa Cha được tôn vinh.

Đây chính là điều cốt lõi, là vẽ đẹp trong cuộc đời, sứ vụ và hành động của Chúa Giêsu.

Khi đến trước ngôi mộ của Lazarô, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện với cả tâm hồn và nước mắt. Ngài cầu nguyện với niềm tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha. Và sau khi đã cầu nguyện cách mật thiết với Chúa Cha, Ngài đã gọi: “Lazaro hãy ra đây”, Lazarô đã được sống lại, và bước ra từ nấm mồ của kẻ đã chết.

Một đểm thú vị khác, chúng ta nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa nơi cuộc trò chuyện của Chúa Giêsu với Matta. Khi đến gặp Matta, và biết rằng Lazaro đã chết, Chúa Giêsu hẵn biết Ngài phải làm điều gì. Nên Ngài đã hỏi Matta, con có tin là em con sẽ sống lại? Dù Matta tin, nhưng Matta vẫn ngăn cản Chúa khi Ngài muốn cho Lazaro sống lại. Tại sao Matta lại ngăn cản Chúa? vì Lazarô đã chết, đã an táng được bốn ngày, và đã nặng mùi. Có thể với Matta, khi để cho Chúa Giêsu tiếp xúc với người chết như vậy thì không tốt cho Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu mời gọi Matta, con hãy tin. Và với lời mời gọi đó của Chúa Giêsu, Matta đã tuyên xưng: “con tin rằng em con ngày sau sẽ sống lại”. Và qua đó, Chúa Giêsu đã công bố: Ta là sự sống lại và là sự sống, cho dù người nào chết mà tin Ta thì cũng sẽ được sống. Ở đây, Khi Chúa Giêsu đề cập đến “người nào chết”, chết ở đây có hai ý nghĩa, cả cái chết về phần thể lý, và cái chết về Đức tin. Thật vậy, nếu tin vào Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, bằng cách quay trở lại và sống thân mật với Chúa, thì tình thương và lòng thương xót Chúa sẽ làm cho chúng ta sống lại và sống lại thật.

Thưa anh chị em, điều quan trọng là, liệu chúng ta có tin vào Chúa, muốn quay trở về, sống kết hiệp và gắn bó cuộc đời của chúng ta cách mật thiết với Chúa không?

Đứng trước những khó khăn và thách đố hôm nay, với căn bệnh dịch, với bất an, đau khổ và cái chết, và khi mà nhiều tín hữu không thể tham dự bàn tiệc Thánh Thể cách trực tiếp… chúng ta đang được mời gọi “hãy vững tin”, tin vào Chúa và lòng thương xót của Ngài. Thánh vịnh 128 vọng lên: “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chộc nơi Ngài chan chứa”. Chúng ta hãy vững tin, nếu lúc này chúng ta loại Chúa ra khỏi cuộc sống và tâm trí chúng ta, chúng ta sẽ thất vọng, cô đơn và và sẽ “chết” (với cái nghĩa đức tin và ngay cả thể lý).

Đồng thời, khi tin vào Chúa, tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chúng ta cũng được mời gọi như Chúa Giêsu, hãy làm gì đó cho những anh chị em đang đau khổ của chúng ta. Trong những lúc khó khăn như thế này, việc cầu nguyện tại tư gia, đọc và suy niệm Lời Chúa, làm và chia sẻ những việc bác ái yêu thương, và ngay cả giữ gìn sức khỏe của bản thân cũng là những cách thế mà chúng ta cùng hành động với Chúa Giêsu cho người mà mình yêu thương. Hãy làm mọi việc vì lòng yêu mến, hãy làm mọi việc vì lòng tin, và hãy làm mọi việc để làm sáng danh và tôn vinh Thiên Chúa. Amen.

 

48.Người bạn.

Có mt câu chuyn huyn thoi k li rng: hàng năm b lc kia phi hiến tế mt người con gái cho thy thn. V tc trưởng ca b lc là mt người rt yêu quý gia đình, có mt người con gái duy nht li bt trúng thăm phi làm vt hiến tế. Ông vô cùng đau kh, nhưng không th vi phm tc l ca b lc được. Phi làm sao bây gi khi ngày phn s đã gn đến và chính ông tc trưởng cũng không th nào ch ta ni nghi thc hiến tế này. Nhng người có uy tín trong b lc nghĩ rng ông s không đủ can đảm hoàn thành trách nhim ca mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rng hoc là h s phi c hành nghi thc hiến tế mà không có mt ca ông tc trưởng, hoc là truyn thng s b hy b. H đặt người con gái xinh đẹp ca ông tc trưởng vào mt con thuyn nh, ri đẩy ra dòng sông. Khi con thuyn bng bnh trôi ni trên dòng sông, vi s kinh ngc, h trông thy mt con thuyn khác n np trong nhng bi cây cũng t t trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mp m, h đã nhn ra người ngi trong thuyn kia chính là ông tc trưởng ca h, cha ca cô gái. Ngay lp tc, c hai chiếc thuyn b cun hút mnh m vào dòng nước đang chy xiết ra gia sông. C hai cha con đã cùng rơi xung con thác chung vi nhau!

Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”.

Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.

Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người.

Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.

 

home Mục lục Lưu trữ