Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1362135

NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

 

Một trong những bản năng mà Thiên Chúa đã ban cho các sinh vật trên trái đất này là bản năng sinh tồn. Con người cũng là sinh vật nên ai cũng muốn sống và sợ chết. Cho dù sự sống có như ngàn cân treo sợi tóc thì người ta cũng quyết bảo vệ cho đến cùng. Người ta sẵn sàng bán vườn đất hay làm tất cả những gì có thể để bảo vệ sự sống của mình hay của người thân. Dầu vậy, đến một lúc nào đó người ta cũng đành bó tay trước thần chết. Như thế, phải chăng cái chết là ngõ cụt của đời một con người sao? Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho biết chúng ta sẽ được sống đời đời nếu như chúng ta thật sự tin vào Người.

Khi hay tin Lazarô người thân thuộc với mình đã chết 4 ngày, Chúa Giêsu đã trở lại Giuđêa và ghé gia đình của anh. Sau vài lời trao đổi với Matta, Chúa Giêsu đã mạc khải: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25 - 26). Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói đến cái chết của sự sống tạm bợ và sự sống đời đời. Cái chết hiện tại của Lazarô chỉ là cái chết của sự sống tạm bợ. Còn ai thật sự tin vào Người thì dù có chết về sự sống tạm bợ thì cũng sẽ được sống đời đời.

Do hậu quả của tội nguyên tổ nên mọi người chúng ta đều phải chết. Tuy nhiên, cái chết này chỉ là sự biến đổi từ sự sống tạm bợ sang sự sống đời đời. Hơn nữa, là người Công giáo chúng ta tin xác loài người phải chết này sẽ sống lại vào ngày tận thế. Đến lúc đó chúng ta sẽ biết ai sẽ được sự sống đời đời hay phải chết đời đời.

Những ai khi còn sống ở đời này biết thật sự tin vào Chúa Giêsu thì chắc chắn đến lúc ấy sẽ không còn phải sợ gì nữa. Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta ánh sáng đức tin. Để rồi qua ánh sáng đức tin ấy, chúng ta có được cái nhìn đức tin. Từ cái nhìn đức tin chúng ta sẽ đi đến những hành động theo đức tin. Quả vậy, Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin không hành động là đức tin chết" (Gc 2, 17)

Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người (Mt 16, 24)

Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta thi hành thánh ý Chúa Cha để trở nên thân nhân của Người. (Mt 12, 50)

Tin vào Chúa Giêsu là chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và yêu anh chị em như chính mình (Mc 12, 33)

Như vậy, tin vào Chúa Giêsu là chúng ta hãy sống như Người đã sống. Càng sống giống Chúa Giêsu bao nhiêu là chúng ta sẽ đáng được sự sống đời đời bấy nhiêu.

 

61.Sự sống vĩnh cữu

Cái chết là nỗi đau tột cùng của con người. Cái chết đưa con người xa rời với những gì trước đây mình gắn bó. Của cải, người thân, ước mơ, hy vọng tất cả đều qua đi trong nháy mắt. Những gì còn lại chỉ là nắm mộ sâu với những tiếc nuối của người thân. Đứng trước cái chết con người mới thấy rõ sự sống đáng quý là dường nào. Cuộc sống nơi trần gian có giới hạn, mang tính tạm thời nhưng ai ai cũng bám víu, cố giữ không muốn xa rời.

Sự sống tạm thời thật quý, sự sống vĩnh cửu còn đáng quý hơn biết chừng nào. Chúa Giêsu đã tự nói về mình " Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống " (Ga11,25). Lời Chúa Giêsu mang đến niềm vui cho những ai đang đau buồn trước cái chết, đem đến niềm vọng cho những ai vừa thất vọng trước sự ra đi của một người.

Sự chết là nỗi đau của con người.

Con người ai cũng phải chết. Người lành cũng chết, người dữ cũng chết. Người tội lỗi cũng chết. Người thánh thiện đạo đức cũng không loại trừ. Người được Chúa Giêsu yêu như Lazaro cũng phải chết hay ngay chính bản thân Chúa Giêsu, Ngài phải đi qua cái chết mới đến vinh quang phục sinh. Cái chết cho ta hiểu rằng mọi vật đều hư vô. Cuộc sống đời này không là hạnh phúc vĩnh cửu. Mọi vật mọi loài đều hữu hạn trong thời gian và không gian. Chỉ nơi Thiên Chúa mới có sự sống thật, mới có hạnh phúc thật. Thiên Chúa là địa chỉ cần thiết mà con người cần phải tìm về. Bởi lẽ nơi Ngài sự chết sẽ không còn hiện diện. Nỗi khổ đau buồn sẽ được Ngài xoa dịu. Tất cả những tang thương sẽ được Thiên Chúa mặc cho những giá trị mang lại ơn cứu rỗi ngàn đời.

a. Chết trong tinh thần.

Cái chết tự nhiên khiến ai nấy cũng đau buồn. Nhưng cái chết tinh thần làm cho con người cần phải suy nghĩ nhiều hơn.

Chết vì không được ai quan tâm.

Có những người vẫn còn hiện diện trước mắt mọi người nhưng thật ra họ đã chết. Đó là những người sống mà không có tình thương, không có hy vọng, bị người đời bạc đãi phản bội.

Có những người già phải sống cô đơn, sống nghèo khổ giữa những đứa con đầy đủ tiện nghi mà không quan tâm gì đến mình. Họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết.

Có những người đang vật lộn với cơn bệnh tật, thế mà chẳng ai kình viếng, chẳng ai thăm nom, con cái cũng chẳng màn, thỉnh thoảng về thì cho ít tiền để cơm cháo. Quả thật, họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết từ lâu rồi.

Có những em nhỏ bụi đời lang thang ngoài phố chợ không biết đâu là nhà, không biết cha mẹ mình là ai, không được học hành, không một tương lai, không một hy vọng cho ngày mai. Những em đó đang sống nhưng thật ra đã chết rồi.

b. Chết vì còn sống trong tội lỗi.

Cái chết tinh thần không dừng lại ở sự lạnh lẽo, bội bạc của con người. Khi con người phạm tội chính là lúc họ đang ở trong sự chết, vì đã căt đứt mối dây hiệp thông sự sống với Thiên Chúa. Họ chết đuối không bởi do người khác nhấn chìm nhưng vì họ không có cố gắng vươn lên. Họ dường như buông xuôi, đành chấp nhận hiện trạng xấu xa của mình. Họ cho rằng tội lỗi là không thể nào diệt được và đức hạnh thì không bao giờ đạt tới được. Họ không cố đi lên nên đành phải thụt lùi. Sống trong tội khác nào sống mà như đã chết.

Một thái độ khác không muốn sám hối ăn năn. Lần đầu phạm tội ta thấp lo sợ. Lần thứ hai vấp phạm cảm thấy lo lo. Lần thứ ba đã thấy ít lo sợ hơn trước. Và rồi nhiều lần sau kế lỗi phạm ta chẳng còn đắn đo suy nghĩ gì nữa. Dần dần sẽ hình thành nơi ta một sự chai lì trong tội. Ta chẳng cần để ý mình có phạm tội hay không, không còn chiến đấu nữa, phạm tội mà không muốn ăn năn nữa. Đó là ngày mà tâm hồn ta đã chết.

Chúa Giêsu là sự sống lại

Trong một thế giới mà sự chết luôn đe doạ thì vai trò sự sống Chúa Giêsu càng được tỏ hiện. Cô Matta thưa cùng Chúa Giêsu " Thưa Thầy nếu có thầy ở đây, em con đã không chết " (Ga11,21). Đây là một câu nói đầy nữ tính của Matta. Lời cô nửa trách móc vì không cầm lòng được trước cái chết của em, nửa tin tưởng vào Thiên Chúa. Cô như trách CG rằng: Lúc con báo tin sao Thầy không đến ngay, bây giờ mọi sự đã rồi, em con đã chết rồi thầy đến chi nữa! Nhưng khi thốt ra lời ấy, cô Matta nói tiếp những lời biểu lộ niềm tin vững mạnh. Cô nói bằng một hy vọng trong tuyệt vọng " Nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy " (Ga11,22). Chúa Giêsu không phụ lòng mong mỏi và niềm tin tưởng của Matta. Ngài đã cho Lazaro sống lại khi thân xác đã nặng mùi. Phép lạ của Ngài là lời minh chứng Ngài chính là sự sống thật.

"Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống ". Khi nói câu này chắc chắn Chúa không nghĩ về sự sống thể xác. Bởi vì một người tin Chúa không thể chết, điều này không đúng sự thật. Do đó, Chúa Giêsu ngầm nói đến sự chết do tội lỗi, do sự nhẫn tâm của con người gây ra. Cho dù người ta có thể trở thành vô tri vô giác như một kẻ đã chết trước sự đau khổ của người khác; Cho dù người ta có thể dấn thân vào việc làm bất lương chẳng còn biết vinh nhục là gì; Cho dù một người đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng trong đời sống tâm linh; Chúa Giêsu vẫn có thể khiến những người ấy sống lại.

 

62.Chết để được sống

Cái chết luôn là nỗi ám ảnh và nỗi sợ khủng khiếp nhất của nhân loại. Ai đã từng trải nghiệm khi chia ly vĩnh viễn với người thân mới biết được nỗi đau và sự mất mát mà cái chết mang đến. Tin Mừng hôm nay cho thấy cảnh đau thương, tang tóc do cái chết mang đến cho Lazarô và gia đình anh, cũng như nỗi đau thương ấy hiện rõ trên khuôn mặt Chúa Giêsu trước sự ra đi của người bạn thân yêu làng Bêthania. Nhưng rồi cũng trong sự đau thương tang tóc ấy loé lên niềm hy vọng xoa dịu cảnh sầu thương trước sự hiện diện của Chúa Giêsu.

Thánh Gioan thật tinh tế khi lột tả sự đau thương của gia đình Bêthania qua những trang Tin Mừng sống động, cũng như cho thấy sự đối kháng với nỗi tang thương ấy là niềm hy vọng mãnh liệt, một niềm vui khôn tả khi tử thần không còn quyền thống trị trước sự có mặt của Con Thiên Chúa.

Chuyện xảy ra tại thôn làng Bêthania, nơi Chúa Giêsu thường lui tới giảng dạy và nghỉ ngơi. Gia đình ấy có ba thành viên: Macta, Maria và Lazarô. Cuộc sống thường ngày cứ trôi qua êm đềm và hạnh phúc. Nhưng cái chết xuất hiện phá tan tất cả. Những dự tính, những hạnh phúc mong manh nhỏ bé ấy tưởng chừng như không ai có thể lấy được giờ đây bị tử thần cướp mất, cắt đứt và làm tiêu tan hết mọi hy vọng, mọi mơ ước tầm thường mà con người đã dày công vun đắp. Một bầu khí tang thương nặng trĩu đang bao trùm gia đình ba chị em Macta trước cái chết của Lazarô.

Chính Chúa Giêsu cũng không cầm được nước mắt trước cảnh đau thương này. Tuy nhiên Ngài muốn cho thấy vẫn con một sức mạnh vượt xa nọc độc của thần chết. Sức mạnh ấy chính là Thiên Chúa. Nếu như thần chết làm tiêu tan mọi hy vọng, gieo nỗi tang thương trên khắp cả hoàn cầu bằng cái chết chia biệt người với người, với những mơ ước xây đắp nơi trần gian... thì Thiên Chúa dùng chính cái chết ấy để đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu.

Những thứ mà tử thần gây ra cho nhân loại chỉ là sự mất mát tạm thời. Nhưng Thiên Chúa dùng cái mất mát tạm thời đó để ban cho nhân loại những điều bất diệt. Như vậy cái chết giờ đây không còn là thứ sợ hãi mà chính là mối lợi. Đây chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: từ sự phản bội của con người trước tình yêu Thiên Chúa mà nhân loại phải chịu hậu quả nặng nề là cái chết, thì giờ đây cũng chính từ cái cái Thiên Chúa dẫn con người đến sự sống đời đời cách dồi dào hơn trước...

Nhưng không phải cái chết nào cũng trở thành mối lợi để chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta chết trong tội lỗi và trong những tham vọng tầm thường của mình thì cái chết ấy sẽ dẫn ta đến cái chết thứ hai là cái chết mãi mãi. Chỉ có những cái chết cho tội, chết cho những ham muốn thấp hèn của bản năng... trong niềm tin tưởng phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa mới dẫn ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu.

Sống trong thời đại văn minh, nhưng con người vẫn còn bị bao phủ bởi sự tối tăm của thần chết. Ánh sáng của Chúa Kitô đã đến để xoá tan bóng đêm của sự chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn còn sống theo bản năng, sống trong sự ích kỷ, muốn chiếm đoạt, muốn thống trị, không tiếp tay để đẩy lùi chiến tranh thù hận... thì chúng ta vẫn đang tiếp tay để cho thần chết thống lĩnh. Khi đó, chúng ta đang tự đóng khung mình không để ánh sáng sự sống của Chúa Kitô lan toả.

Nếu chúng ta muốn chiến thắng tử thần, muốn cuộc sống này không con bị tử thần phá hoại, chúng ta phải biết tin tưởng vào Chúa Kitô và đặt mọi hy vọng vào Thiên Chúa như hai chị em Macta và Maria trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu có Thầy ở đây em con sẽ không chết."

Tin tưởng vào Chúa Kitô là tin rằng cái chết là một phần của sự sống. Chúng ta sinh ra là để chết và chết để được sống dồi dào. Chính nhờ cái chết mà chúng ta hiểu được giá trị của sự sống. Chúng ta phải chết cho tính ích kỷ, tự kiêu và chết cho tội... Mỗi lần chết như thế là mỗi lần chúng ta cùng nhau vượt qua sân khấu cuộc đời. Mỗi ngày có một cái gì chết đi thì cũng có một cái gì được sinh ra. Chúng ta chỉ chết trong phút chốc với những thất bại, với sự ngược đãi chống đối, với buồn đau, thất vọng và ngay cả cái chết của thân xác như Lazarô... vì nỗi đau mà những cái chết này mang lại trong giây lát rồi sẽ qua để hứa hẹn một tương lai tươi đẹp. Nhưng chúng ta sẽ chết mãi mãi khi tự cô lập, khi chua cay gắt gỏng với anh em, khi con tim ta trở nên chai đá không còn nhạy cảm trước nỗi đau của người khác... Chính Chúa Kitô cũng đã trải qua những cái chết này khi treo mình trên thánh giá. Vậy nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô như thế thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Ngài.

Lạy Chúa, nếu ngày mai con chết chắc chắn con sẽ vô cùng lúng túng vì cđời con chưa làm được một điều gì cho Chúa cũng như cho anh em. Thế giới này còn bao khiếm khuyết dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng ta của Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dám chết đi chính mình để biết cộng tác với Chúa để xây dựng một thế giới yêu thương, công bằng, vui tươi và hạnh phúc... Xin nuôi dưỡng nơi chúng con một niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Amen.

 

63.Sống và chết

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.

Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".

 

64.Chuyển rời, Đến gặp và Tin thì được Sống

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Chúng ta đang sống trong tinh thần Mùa Chay. Mùa Chay nhắc nhớ chúng ta ăn chay, hãm mình và làm việc bác ái. Thiết nghĩ, làm những việc đó để làm gì nếu không phải hy vọng được tha thứ tội lỗi, và mong đạt được sự sống đời đời sau cái chết!

Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay hé mở cho chúng ta chân trời hy vọng ấy khi trình thuật phép lạ Đức Giêsu cho anh Ladarô chết sống lại!

Qua phép lạ cho Ladarô hồi sinh sau khi chết, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy Ngài chính là nội dung của niềm hy vọng phục sinh; đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác nơi Ngài, thì cũng sẽ được sống. Vì thế, chính Ngài đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Các bài đọc sẽ lần lượt giúp cho chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay.

1. Ý nghĩa Lời Chúa

Trước tiên là bài đọc I (Ed 37, 12-14), trình thuật việc dân Israel sống trong cảnh cơ cực bần cùng tại Babylon trong thân phận lưu đầy. Khi sống trong cảnh tối tăm như thế, họ không biết gì đến tương lai. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt: không đền thờ, không tư tế, không hy vọng, ở tản lạc giữa các dân ngoại... họ chẳng khác gì như một đống xương khô nơi nấm mồ trong thung lũng thẳm sâu (x. Ed 37, 114). Tuy nhiên,Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, nên đã sai tiên tri Êdêkiel đến để nâng đỡ, an ủi và loan báo cho họ một tương lai sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn và tràn đầy hạnh phúc khi dân Israel được hồi hương nếu họ trung thành và sẵn sàng nghe theo huấn lệnh của Thiên Chúa. Được hồi hương, thoát khỏi cảnh nô lệ bên Babilon thì chẳng khác gì được trỗi dạy từ những nấm mồ là hình bóng của sự chết tróc (x. Ed 37, 12-14).

Tiếp theo, bài đọc II (Rm 8, 8-11), thánh Phaolô đã lay động tâm hồn tín hữu Rôma bằng việc đưa ra những hình ảnh gợi cảm nhằm biểu đạt một niềm hy vọng cho tương lai. Vì vậy, ngài đã ví những người sống trong cảnh buông thả, dung dưỡng xác thịt, không sống theo Thần Khí thì chẳng khác gì một người đang bị nấm mồ thần chết vô hình do tội lỗi vây hãm. Tuy nhiên, thánh nhân cũng củng cố niềm tin và mời gọi hãy gắn bó với Đức Giêsu nhờ Thánh Thần của Ngài, để trong ta có Chúa và trong Chúa có ta, thì cho dù chúng ta có chết, Ngài cũng sẽ cho chúng ta sống lại.

Cuối cùng, bài Tin Mừng đem lại cho chúng ta tràn đầy hy vọng khi trình thuật việc Đức Giêsu cho anh Ladarô là bạn thân tín của Ngài đã chết 4 ngày được sống lại. Sự hồi sinh Ladarô, một mặt nhờ niềm tin của Martha, mặt khác để tôn vinh Thiên Chúa Cha, và cũng để củng cố niềm tin nơi các môn đệ cũng như những người hiện diện, đồng thời cũng tiên báo một cuộc sống mới sau cái chết của những người tin vào Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Thiên Chúa, nên ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

2. Đức Giêsu là sự sống

Nếu Chúa Nhật 4 Mùa Chay, câu chuyện Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chính là sự sáng thế gian qua trình thật việc Đức Giêsu làm phép lạ cho người mù được sáng mắt, thì Chúa Nhật này, như một sự tiệm tiến để dẫn đến một mặc khải quan trọng hơn, mặc khải về Đức Giêsu chính là sự sống.

Trình thuật được khởi đi từ việc Đức Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem. Đi lên Giêrusalem vào thời điểm này thì đồng nghĩa với việc đón nhận cái chết. Nhưng vì vâng lời Chúa Cha và yêu thương con người, nên Ngài đã sẵn sàng.

Vì vậy, khi nghe thấy có người đưa tin về Ladarô bạn của Ngài đau mệt, Đức Giêsu đã không đi ngay, mà phải đợi đến khi Ladarô chết và được an táng tới 4 ngày trong mồ, Ngài và các môn đệ mới tới.

Khi đến Bêtania, Ngài thổn thức vì thấy nỗi đau khổ của hai chị em Martha và Maria mất em, của những người hàng xóm thương khóc bạn thân. Thấy Đức Giêsu, Martha đã chạy lại và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết" (Ga 11, 21). Lời nói này có thể là một lời trách nhẹ và cũng là một lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu. Thật thế, ngay sau câu nói đó, Martha tiếp: "Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy" (Ga 11, 22).

Đức Giêsu đã không để cho Martha thất vọng và những người Dothái phải chờ đợi, vì thế Ngài đã trấn an ngay: "Em chị sẽ sống lại!". Tuy nhiên, Martha hiểu về việc thân xác của Ladarô sẽ được phục sinh trong ngày sau hết: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11, 24). Đức Giêsu đã khẳng định rằng Ngài có toàn quyền trên sự chết khi nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Nhưng vì quá đỗi hồi hộp và luýnh quýnh, niềm tin lại một lần nữa bị thử thách đối với Martha, vì thế bà thưa: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". Nhưng Đức Giêsu đã đòi Martha phải đặt trọn niền tin vào Thiên Chúa: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 39). Và như một sự minh định, Ngài đã truyền lệnh cho lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, và lớn tiếng truyền lệnh cho Ladarô ra khỏi mồ. Ngay lập tực, Ladarô tiến ra và thần chết đã bị đẩy lui cho sự sống hồi sinh.

Theo qua niệm của người Dothái, thì câu nói của Martha “... đã 4 ngày rồi” hàm ý nói rằng khi một người đã chết được 4 ngày thì linh hồn chỉ lởn vởn chứ không nhập được vào thân xác nữa..., nên việc hồi sinh kẻ chết quả là một chuyện khó khăn. Tuy nhiên, sự chậm trễ của Đức Giêsu; việc xác chết đã 4 ngày... chuyện đó đâu có gì khó đối với Đấng là nguồn sự sống!

Qua lệnh truyền và hình ảnh các mảnh vải quấn thân xác của Ladarô được tháo cởi, có ý muốn nói lên sự chết không còn có quyền chi đới với Đức Giêsu nữa, và khi con người được giải thoát khỏi nấm mồ sự chết thì cũng là lúc con người được tự do đích thực và cái chết không thể chế ngự được gì trước Thiên Chúa qua Đức Giêsu.

Như vậy, việc Đức Giêsu cố tình chậm trễ như thế là để nhằm cho người ta thấy rằng, Ngài làm chủ trên sự sống và sự chết của con người. Khi Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết trên Ladarô thì cũng là lúc giờ Thiên Chúa Cha được tôn vinh nơi Ngài.

3. Sống sđiệp Lời Chúa

Toàn bộ bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta thấy Đức Giêsu chính là sự sống. Tuy nhiên, muốn đạt được sự sống ấy, thì chúng ta phải tin nơi Đức Giêsu là sự sống. Ngài sẽ làm cho thân xác hư nát, phải chết của chúng ta trở thành thân xác sáng láng vinh hiển của Ngài. Mặt khác phải ra khỏi chính mình, ra khỏi cái tôi tự kiêu để đến với Đức Giêsu. Nếu chúng ta không đến với Ngài, chúng ta sẽ không có nguồn sự sống từ nơi Ngài. Thật vậy, cành không thể có sự sống nếu không gắn liền với thân cây. Cành chỉ có sự sống và từ sự sống ấy mới sinh ra nhiều hoa trái dồi dào được.

Sự gắn bó với Đức Giêsu được kể như là điều kiện cần để được sống đời đời.

Dưới ngòi bút của một nhà thần học siêu nghiệm, thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến sự “chuyển rời” hiện tại để hướng đến một bước tiến mới.

Trước tiên là sự “chuyển rời” của người đưa tin cho Đức Giêsu về việc Ladarô đang bệnh nặng; rồi Đức Giêsu và các môn để “chuyển rời” từ bên kia sông Giođan để đến Bêtania; Martha đã “chuyển rời” từ trong nhà để ra đón Ngài; Đức Giêsu, các môn đệ, hai người chị của người chết và những người Dothái đã “chuyển rời” từ nhà của người chết để đến nơi đã an táng; và cuối cùng là Ladarô “chuyển rời” để ra khỏi mồ.

Hình ảnh này cho chúng ta thấy rằng, đời sống của con người chúng ta cần phải “chuyển rời” để thay đổi nếp sống cũ, con đường cũ, nói chung là con người và hành vi tội lỗi của chúng ta, để thay vào đó là một cuộc đời mới, cuộc đời thánh thiện, công chính; một cuộc đời và một sự sống có Chúa. Khi có Chúa, chúng ta đạt được sự sung mãn trong tình yêu của Chúa.

Thật vậy, Nếu chúng ta sống dung túng và hào phóng trong tội. Không gắn bó với Chúa. Chúng ta cũng sẽ chết. Tuy nhiên, nếu chúng ta thay đổi nếp sống cũ là ích kỷ, tham lam, hà tiện, kiêu ngạo... và tin tưởng vào Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ được sống đời đời: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25).

Khi tin như thế, cả con người và hành vi của chúng ta hướng về Chúa, về Nước Trời và như một sự “chuyển rời” để từ ích kỷ đến lòng bao dung. Từ thất vọng đến niềm hy vọng. Từ miền u tối đến miền ánh sáng. Từ sự chết đến nguồn sự sống. Như vậy, nhờ có sự “chuyển rời” mà sự chết nơi chúng ta là những người tin, không trở nên bi đát, ngõ cụt. Nhưng chỉ là một cuộc chuyển mình hầu vượt qua cái chết để tiến đến vinh quang mà thôi. Thật vậy, thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã làm phép lạ cho Ladarô chết 4 ngày sống lại, nhằm củng cố niềm tin của những người đương thời với Chúa, và cũng mặc khải cho mỗi người chúng con biết rằng chính Chúa là sự sống lại và là sự sống. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được điều đó để thêm tin, thêm mến, thêm cậy trông vào Chúa hầu được sự sống đời đời. Amen.

 

65.Thầy là sự sống lại và là sự sống

(Chú giải của Lm FX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự kiện Giờ của Đức Giêsu đến”.

Bản văn đọc trong Phụng vụ Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, nói về sự sống lại và sự sống, và quyết định của Thượng Hội Đồng là tìm cách giết Người.

Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại được đặt vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì Người không chỉ giới hạn vào việc chữa lành mộtchứng bệnh, nhưng đưa mộtngười từ cõi chết trở lại với cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối.

Những nét tiêu biểu của phép lạ này là: Người thực hiện hành vi ấy cho mộtngười bạn và giữa vòng các bạn hữu, nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong các trường hợp khác, trước tiên Đức Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những đối thoại, Người mới đưa người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi quyền lực sắp được thực hiện và là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực. Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng minh cho thấy là Người có quyền trên sự chết.

Sự cố này xảy ra sau khi các đối thủ của Người đã tìm cách bắt Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông sông Giođan. Tại đây Người nhận được tin bạn Người là Ladarô đau ốm (11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự cố này đưa đến chỗ Thượng Hội Đồng kết án tử cho Đức Giêsu.

Đọc bản văn này, độc giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố “sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại” (analepse), “báo trước” (prolepse), để giới thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của bản văn” [Có thđọc Lê Minh Thông, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào bản văn.].

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia làm năm phần:

1) Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (11,1-6);

2) Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (11,7-16);

3) Đức Giêsu gặp hai chị em (11,17-38a);

4) Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (11,38b-44);

5) Kết luận: Ghi chú về đức tin (11,45).

3.- Vài điểm chú giải

- Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên Eleazar (Êlêadarô), mộttên rất quen thuộc vào thời Tân Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này.

- Bêtania (1): Có những người cho rằng đây là mộttên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng Bêtania gần Giêrusalem được mọi người biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi là El ‘Azariyeh, mộttên phái sinh từ “Ladarô”.

- làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1): Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các độc giả quen biết hai cô.

- là người sau này sẽ xức dầu thơm (2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã lấy tóc lau”) [Xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn] chân Người. Đây là một lời vừa nhắc lại vừa đón trước: việc xức dầu ở Bêtania chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa được bản văn nói đến? Ở đây, tác giả không đứng trên bình diện truyện kể, nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ lời trực tiếp với độc giả. Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào đầu truyện Thương Khó; vai trò này được ghi nhớ rất rõ trước cả khi TM IV được soạn thảo. Tác giả nại đến ký ức của độc giả nên mới nói về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành). Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc thái một lời đón trước.

- Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32.

- thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý rằng có mộtsự kết nối với phép lạ thứ hai ở Cana, cũng là mộtphép lạ ban sự sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho rằng có mộtsự tương đồng với sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở tiệc cưới Cana, Người đã không đáp ứng ước nguyện của Đức Maria ngay. Không mộtý kiến, mộtnguyện ước nào của loài người, cho dù đúng đắn, lại có thể chỉ cho Người cách xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18; 8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ được hoàn tất vào thời Ngài đã định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành trước giờ. Người ta không thể bắt Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4; 10,17-18).

- Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có thể so sánh để thấy những điểm tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10.

- ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện thần học, đây là mộtquy chiếu về Đức Giêsu (8,12; 9,5).

- đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ của Bản LXX), “ngủ” là một uyển ngữ (euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10). Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh, chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên, cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng ấn mộtcuộc đời hạnh phúc vẫn tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước, những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai đã yên giấc (1 Cr 15,20).

- được bốn ngày rồi (17): Chi tiết này được ghi nhận để chứng thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa.

- Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 6,39-45). Do c. 29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là Đức Giêsu đã đến.

- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở Mt 16,16.

- Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14.

- thổn thức trong lòng và xao xuyến (33): “Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle của động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là những công thức Sê-mít để diễn tả các cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”, dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý mộtsự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là “bối rối, luống cuống”. Các học giả đã tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có những người thấy đây là cơn giận của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết và tác giả của nó là Satan; có những người khác thì cho rằng đây là cơn giận của Người khi đứng trước sự cứng lòng của người Do Thái. Rất có thể là như thế, bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc, Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu sắc hơn.

Ngoại trừ một lần động từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói về nước hồ bị khuấy động và dùng ở đây, động từ này chỉ được dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc hấp hối tại vườn Ghếtsêmani, dường như được Ga chuyển vào truyện này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp (12,27). Cái chết của Ladarô được Đức Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết của Người và cuộc chiến thắng nhất thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại của Người là chiến thắng trên Satan và cái chết.

- Đức Giêsu khóc (35): Đức Giêsu đã có mộtthái độ hết sức nhân bản khi đứng trước nỗi đau của người khác. Người ta hiểu là Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở đây tác giả Ga dùng một động từ để chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho] nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động từ này lại giống với động từ tác giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp cho bạn Người sống lại, tại sao Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta (c. 39) và của Maria.

- Ngôi mđó là một cái hang có phiến đá đậy lại (38): Mộ đứng như cái giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm. Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc với thi hài người chết.

- Đức Giêsu ngước mắt lên (41): Cử điệu ngước mắt nhìn lên là mộtcách mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện (x. Lc 18,13; Ga 17,1).

- Người kêu lớn tiếng (43): Động từ kraugazein chỉ được dùng 8 lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này được dùng 4 lần để nói về tiếng la hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu. Như vậy, dường như có thể rút ra mộtsự tương phản giữa tiếng kêu lớn của đám đông nhằm đưa cái chết đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan hô Đức Giêsu.

- chân tay còn quấn vải (44): Có người hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này không đúng chỗ vì đặt ra trong mộtbài tường thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có thể do mộtlý do thần học mà tác giả đã nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở 20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có thể là với ý là Người chẳng bao giờ cần đến chúng nữa, bởi vì Người không bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không chắc là tác giả có nghĩ đến số phận tương lai của Ladarô.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Câu chuyện đưa ta đến gặp một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức Giêsu có thể nói được rằng bất cứ kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi dậy từ cõi chết?

* Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6)

Đức Giêsu đã lui về mạn đông sông Giođan để tránh các đối thủ đang tìm cách bắt Người. Tại đây người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm; ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria” (11,1). Ladarô, em của cô bị đau ốm” (c. 2). Maria được giới thiệu bằng một câu đón trước: “là người sau này đã xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn Mácta được giới thiệu trước tiên như một người bạn (c. 5), rồi như một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài, Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu, nơi chỉ có các anh em chị em thôi.

Cũng như Đức Maria tại tiệc cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không trực tiếp bày tỏ mộtlời thỉnh cầu. Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho Người nếu Người đến gần Giêrusalem (x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana, Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới của mộtgia đình bằng hữu; rồi Người đã làm những hành vi quyền lực khác cho những người mà Người không quen biết. Lần này những điểm được nhấn mạnh là tình yêu thương và tình bằng hữu vẫn liên kết Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân cần riêng tư của Đức Giêsu đối với chúng ta là loài người. Người không theo đuổi mộtchương trình vật chất nào, trong đó kết quả thống kê quan trọng hơn những con người. Người coi chúng ta, những con người, là như những nhân vị mà Người quan tâm chiếu cố.

Dọc theo bài tường thuật, bằng nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc. 6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được sự kiện là các bạn của Đức Giêsu cũng chết mà Người không can thiệp gì?

Tác giả dùng thêm ba lời đón trước để cho thấy ý nghĩa của cái chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai gần như thế nêu bật sự khác biệt trong nhận thức của Đức Giêsu, là người biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì.

* Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (7-16)

Trước hết, Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền lực Người sắp thực hiện. Sau dấu lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh quang của Thiên Chúa” không phải là mộtvinh dự ích kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu độ loài người, những kẻ Ngài yêu thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ được thể hiện qua việc tôn vinh Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất là khi Người chịu giương cao trên thập giá, rồi Người chết và sống lại (12,23-32).

Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại.

Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thuộc về “giờ” của Thiên Chúa. Nhưng dường như Người không đánh tan được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy!” (c. 16).

* Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a)

Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại Bêtania được mô tả bằng hai đặc điểm: Ladarô đã ở trong mồ được bốn ngày và có nhiều người quen biết đến với hai chị em. Theo quan niệm thời đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi.

Tất cả những người quen biết gia đình đã ở đó mà đành chịu bất lực khi đứng trước cái chết, và chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31). Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể thật sự thay đổi điều gì đó trong tình cảnh này và có thể đưa lại sự nâng đỡ đích thực bằng quyền lực thần linh của Người. Mácta đã đến găp Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai chị em đẵ lặp đi lặp lại câu này trong những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng có thể chữa lành những người đau ốm, nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là Người đã không đến đúng lúc. Nhưng rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể vượt qua sự chết mà vào sự sống.

Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước, ánh sáng và người mục tử nhân hậu; Người đã quy chiếu về chính mình Người những thực tại mà nhất thiết cuộc sống trần thế của chúng ta phải lệ thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người để được sống muôn đời. Nơi Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống bất tử của Người. Cuộc phục sinh giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc của cái chết; sống là kết hợp với Thiên Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho chúng ta và được liên kết với nhau trong đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin vào Người. Sự sống được Đức Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria.

Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là mộtdấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết, Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng đưa anh trở lại với cuộc sống trần thế, từ đó anh lại đi tới cái chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho thấy là cái chết không phải là một giới hạn đối với Người, nhưng Người có quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực của Người không phải là mộtcuộc sống trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.

Đức Giêsu muốn đưa cả Mácta, cũng như các môn đệ Người, đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên mộtlời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời được hàm chứa trong lời tuyên bố của Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38). Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình của Người đã nhắm tới trước: mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế ngược lại với các đối thủ của Đức Giêsu, những người đã trách Người là nói phạm thượng chống lại Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên Chúa dùng để thực hiện công trình cứu độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là Đấng sống trong mộtsự hiệp thông không có khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha: Người đã đến trong trần gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm (x. 11,42; 16,28).

* Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44)

Đức Giêsu bảo người ta dẫn Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và nhiều người khác đã đến để săn sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn người bất lực trước sức mạnh tàn nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của những người chắc chắn rằng cái chết là sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất một người thân là điều rất đau lòng; nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ người ấy lại cho riêng mình, trong khi người đó đang đi vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trước.

Đức Giêsu cho cất tảng đá che mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách thế giới người sống với thế giới kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu nguyện, đây là điều Người chưa bao giờ làm trong những hành vi quyền lực trước đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên của Người được tác giả Ga nhắc lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời Người. Về phần Người, Đức Giêsu tuyệt đối chắc chắn về sự kết hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần phải chứng minh cho Người bằng mộthành vi quyền lực. Nhưng điều mà Người nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu mới có thể thực hiện công trình của Người hầu cứu độ loài người. Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái: Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính Người để giúp đám đông hiểu rằng Người là sứ giả của Thiên Chúa.

Đối với Ladarô, người ta phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện: tảng đá đã được lăn ra một bên, và khăn liệm đã được đặt riêng ra (20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các môn đệ ý thức về sự kiện.

* Kết luận: Ghi chú vđức tin (45)

Tất cả mọi người trong chuyện đều chứng tỏ họ thiếu đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin, cũng như lâu nay, là tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to lớn này của Đức Giêsu cũng là mộttrợ giúp niềm tin.

+ Kết luận

Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được mộtngười đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể không phải là giải quyết những vấn đề trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng bệnh. Người có làm các phép lạ để giải quyết các vấn đề đó, nhưng để các phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa người ta đến đức tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới được giải quyết tận căn, vì Người sẽ ban cho người ta sự sống đời đời.

2. Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang đi trên con đường đưa đến cái chết, tức khắc tôi nhận ra được giá trị của mỗi sự việc tôi đang đảm nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa ấy được giới thiệu: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận thấy cái chết không còn là mộtsức mạnh bách chiến bách thắng, mộtđịnh mệnh bi đát mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như mộtcửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu.

3. Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả những giới hạn của thân phận thọ tạo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống và chết như Người.

4. Sự can thiệp của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là mộtĐấng Vô Biên xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo của Người. Thiên Chúa đã nhập thể để làm người, mang mộttrái tim loài người. Người có thể cảm động, xao xuyến. Người yêu thương các bạn hữu của Người. Nhưng Người cũng bung quyền năng của Người ra để cho Ladarô sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con đường sống thật.

5. Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, vì Người là Lời tạo dựng của Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ chết, để rồi các đối thủ có thể chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì Đức Giêsu không muốn cứu lấy mộtmình Người. Khi đảm nhận thân phận con người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu được tất cả mọi người.

home Mục lục Lưu trữ