Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 46
Tổng truy cập: 1363871
NIỀM VUI CỦA THIÊN CHÚA
NIỀM VUI CỦA THIÊN CHÚA
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy
23. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cách đây không lâu, trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18 tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài 'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và “thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi. Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Một nhà chú giải suy niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách “Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người.
24. Sám hối
Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
1. Thiên Chúa mời gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
2. Con người đáp trả
Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen.
25.Thiên Chúa là Đấng Cứu độ – An Phong
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta"
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng".
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.
26.Đổi đời như Da-kêu
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Giê-ri-cô là một miền đất giàu có và quan trọng nằm trong thung lũng sông Gio-đan. Giê-ri-cô có cả một rừng Chà-là rộng lớn cung cấp trái ngon cho nhiều nơi, có nhiều vườn cây dầu thơm tỏa hương khắp vùng, cùng với những vườn hoa hồng nổi tiếng nên được gọi là “vùng đất thần tiên [1]”. Chà-là và dầu thơm ở đây được người Rô-ma vận chuyển đi bán khắp nơi đã khiến Giê-ri-cô trở thành trung tâm quan thuế lớn nhất Palestine thời ấy. [2]
Được đứng đầu ngành thuế trong một trung tâm buôn bán sầm uất nên Da-kêu có nhiều cơ hội kiếm chác cách bất công và trở nên giàu có.
Tiền bạc thường dìm người ta đắm chìm trong đam mê và lạc thú, vậy mà chẳng hiểu do động cơ nào, Da-kêu lại hăm hở tìm đến với một con người thuyết giảng đạo đức như Chúa Giê-su khi Ngài đi qua Giê-ri-cô. Thế rồi, ông được vinh dự đón Chúa Giê-su vào nhà, được nghe Ngài giáo huấn và nhờ đó, ông đã hoán cải sâu xa, hoán cải tận gốc rễ và đi đến một quyết định không ai ngờ và rất đáng nể phục. Ông thưa với Chúa Giê-su rằng:
“Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi hiến cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).
Đem nửa gia tài kếch sù của mình để hiến cho người nghèo và đền bù gấp bốn những thiệt hại đã gây ra cho người khác quả là một quyết định rất quảng đại, dũng cảm và anh hùng.
Giờ đây, chúng ta thử đặt mình vào địa vị Da-kêu và hãy tự hỏi mình: Nếu ở địa vị của Da-kêu, tôi sẽ hành động thế nào?
1- Có quan tâm tìm đến với Chúa Giê-su không?
Khi tôi đang hồi thịnh vượng, đang có cơ hội hái ra tiền như Da-kêu... thì tôi phải tranh thủ kiếm chác thêm, lo tìm mọi cách để thu vén nhiều hơn… hoặc tiêu xài mua sắm, nhậu nhẹt ăn chơi, vui hưởng lạc thú ở đời…
Còn ông Giê-su, một người thường rao giảng về công bình, bác ái… thì có mang lại lợi nhuận gì cho tôi đâu? Chẳng những không mang lại lợi ích, ông ta còn là người cản mũi kỳ đà, cản trở tôi làm điều tôi muốn là vơ vét thật nhiều… Vậy thì để ý đến ông ta làm gì.
Nếu nghĩ như thế thì tôi sẽ không thể cải thiện được cuộc đời. Tôi cứ như ngựa theo đường cũ, cứ đắm chìm trong tiền bạc và lạc thú, không thể đổi đời ngoạn mục như Da-kêu.
Điểm son của Da-kêu là biết quý trọng điều khôn ngoan, là muốn tiếp cận với những nhà hiền triết. Yếu tố này đã khiến ông tạm gác lợi nhuận sang bên, gác bỏ rượu chè nhậu nhẹt… và háo hức tìm đến với Chúa Giê-su. Có như thế, Da-kêu mới cải thiện cuộc sống thật tuyệt vời! Mấy ai sống trong hoàn cảnh của Da-kêu mà làm được như thế?
2- Có đón nhận và thực hành lời Chúa không?
Rất nhiều lần, Thiên Chúa kêu mời chúng ta đón nhận lời Chúa. Trước hết, chính Chúa Cha lên tiếng mời gọi chúng ta hãy nghe lời Chúa Giê-su:
“Đây là Con yêu dấu của Ta… Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài” (Mt 17, 5).
Chúa Giê-su cũng tha thiết mời gọi:
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi… Tôi ban cho chúng sự sống đời đời…” (Ga 10, 27).
“Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn sống bằng Lời Chúa nữa” (Mt 4,4).
“Tôi bảo các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
Chúng ta cũng biết thánh Phê-rô cũng tuyên xưng rằng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy có những Lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67).
Chúa đã mời gọi tôi cả trăm lần, tôi không mấy lưu tâm. Sách Tin mừng sẵn có bên cạnh tôi, nhưng mấy khi tôi đọc và suy gẫm?
Lời Chúa không thu hút được tôi, không kéo tôi ra khỏi những lo toan tìm kiếm tiền bạc để dành thời giờ đọc lời Chúa… Lời Chúa không thể kéo tôi ra khỏi những đam mê xác thịt để gẫm suy... vì tôi quá yêu chuộng những quyến rủ đời này.
Thế mà Da-kêu lại hăm hở đón nghe lời Chúa, lại còn rước Chúa vào nhà mình, đón tiếp Chúa cách nhiệt tình và sau khi nghe lời Chúa Giê-su giáo huấn, ông có một quyết định quảng đại và rất anh hùng: “Tôi xin đem nửa phần gia sản tôi bố thí cho người nghèo khó và nếu tôi đã làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Thế là nhờ đón nhận và thực hành lời Chúa, Da-kêu đã cải thiện được cuộc đời, từ một con người bần tiện chuyên lo thu vén trở thành người chính trực và bác ái.
Lạy Chúa Giêsu,
Từ một người đáng khinh, Da-kêu đã chuyển mình trở nên một con người rất đáng khâm phục vì ông đã đón nhận, lắng nghe và để cho lời Chúa hoán cải cuộc đời.
Xin cho chúng con biết quý trọng lời Chúa hơn lạc thú thế gian, biết lắng nghe lời Chúa hơn là những chuyện phù phiếm vô bổ và quyết tâm thực hành những điều Chúa dạy, nhờ đó, cuộc sống chúng con được cải thiện và trở nên người có phẩm chất cao đẹp xứng đáng là con của Cha trên trời.
_____________________________
[1] Theo sử gia Josephus
[2] Theo William Barclay
27. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
28. Biến đổi
Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi... nhưng kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân, ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm. Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng hoán cải ao ước thật sự... Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, sự trông đợi của Người... thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con người mới.
29. Đổi mới cuộc đời – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
30. Hoán cải từ con tim
Nếu như tuần trước Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện để cho chúng ta thấy lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa. Thì hôm nay, qua câu chuyện ông Giakêu muốn thể hiện cách cụ thể lòng thương xót đó bằng việc Ngài thương xót và an ủi cho Giakêu khi đến viếng và ở lại nhà ông, một người tội lỗi.
Thế giới và những những gì chứa đựng trong nó chỉ là những hạt cát nhỏ bé, mong manh so với sự vĩ đại lớn lao của Thiên chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương tất cả các tạo vật ấy. Vì Chúa tạo dựng vũ trụ này chỉ vì tình yêu. Chúa không hề chê bất cứ tạo vật nhỏ bé nào. Vì nếu ngài chê ghét thì không một tạo vật nào có thể tồn tại. Vì thế, mọi vật hiện hữu quanh ta điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa cho dù một vài thụ tạo không đi đúng đường lối Ngài thì ngài vẫn tỏ lòng khoan dung để nhắc nhở, sửa dạy hầu chúng biết được lỗi lầm mà bỏ đường gian ác. Đó là tư tưởng của bài đọc I
Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta một ví dụ về lòng thương xót Chúa qua việc Chúa Giêsu tìm được một người thu thuế tội lỗi Giakêu để kêu gọi ông ta sám hối. Sự sám hối này được ông ấm ủ trong lòng bấy lâu qua sự khao khát muốn gặp Chúa Giêsu.
Chắc chắn Chúa Giêsu không xa lạ gì đối với dân thành Giêricô. Vì tại đây, Ngài đã chửa cho một người mù tên Bartimê. Và không biết tình cờ hay ngẫu nhiên mà chúa Giêsu người Samaria nhân hậu xuất phát từ Giêricô. Vì thế, là người giàu có trong thành, Giakêu cũng đã nghe đồn đây đó về Chúa Giêsu và ông muốn gặp Ngài.
Dẫu biết sự khao ấy nơi ông có nhiều khó khăn cản trở: giới hạn về thân xác, là một người lùn “đừng chơi với thằng lé đừng ghé nhà thằng lùn”; giới hạn về tâm hồn, là người không có uy tín mấy, bị khinh khi. Nhưng tất cả những cản trở, những khó khăn đó không ngăn được ước muốn gặp Chúa và ngăn cản đôi chân ông cất bước đi tìm. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy sự cố gắng nổ lực khát khao gặp Chúa xuất phát từ tấm lòng chân thành của ông.
Nhưng sự quảng đại và lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng đâu chịu thua sự nỗ lực và cố gắng của Giakêu. Vì Chúa Giêsu đã biết trước Ngài sẽ phải làm gì cho ông hôm nay. Giữa đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không mấy quan tâm. Vì ánh mắt của Ngài đã hướng lên ngọn cây sung cao chót vót, nơi Giakêu đang ngồi chờ đợi. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã quan tâm đến ông cách đặc biệt. Vì thế nếu chúng ta cảm phục trước tấm lòng khao khát Chúa Giêsu cách chân thật nơi Giakêu bao nhiêu thì chúng ta càng phải thán phục trước sự quảng đại và lòng khoan dung của Chúa gấp bội.
Vì Ngài đã không mấy quan tâm đến đám đông reo hò đón rước vây quanh mà lại đoái nhìn đến Giakêu, một người bị xã hội loại trừ khinh bỉ. “Này ông Giakêu hãy xuống mau đi vài hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác và vượt xa với suy nghĩ của con người. Việc Chúa Giêsu đến trọ nhà ông đã nói lên ơn cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ một ai. Vì Chúa không nhìn con người với những lầm lỗi của họ. Nhưng Ngài chỉ để ý đến phẩm giá cao quý được đặt để nơi người đó. Và chính cái nhìn thông cảm thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu cảm phục và hoán cải đời sống. Một sự hoán cải chân thật xuật phát từ con tim bị đánh động bởi lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
Chính khi cảm nhận được tấm lòng bao la quảng đại và tình thương của Chúa Giêsu dành cho mà Giakêu đã nhận ra, ý thức được chính mình. Con tim của ông đã bị đánh động và bị chinh phục. Chính sự khao khát của ông đã được đáp đền. Giakêu đã thật sự mặt chạm mặt và lòng gặp lòng với Chúa Giêsu.
Sự hoán cải liền xảy ra ngay lập tức, có thể thấy được và chắc chắn là sự hoán cải này sẽ chi phối suốt cuộc đời Giakêu. Đây không chỉ hoàn toàn là sự hoán cải theo lý trí mà bao gồm cả con tim. Đây mới là sự hoán cải thật sự, đúng nghĩa và là sự hoán cải quan trọng. Nó vượt ra ngoài những suy nghĩ của lý trí và đi đến một hiệu quả sâu xa. Sự sợ hãi của con người không thể có được sự hoán cải này mà chỉ có con tim, chỉ có gặp gỡ và tình yêu.
Chính sự hoán cải này mới có thể thay đổi được lòng người, thay đổi được cái nhìn, biết yêu thương người khác và biết chia sẻ cho nhau. Kỳ thị, ghen ghét... chỉ có thể làm cho con tim đóng kín và trở nên chai đá. Sự thông cảm đón nhận và cách đối xử thân tình của Chúa Giêsu sẽ làm cho con tim nhân lọai trở nên mềm mại và rộng mở. Không có gì có thể làm thay đổi hay có thể hoán cải một con người nếu không phải là con tim.
Để tỏ lòng sám hối thật sự và để Chúa Giêsu không phải thất vọng, Giakêu đã chứng minh bằng một sự từ bỏ và hứa hẹn một cuộc đời công chính. Danh lợi và vật chất giờ đây đối với ông chỉ là phù vân. Vì bấy lâu nay có nó nhưng đâu có ngày nào ông cảm thấy hạnh phúc, bình an. Sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn ông vẫn cứ khắc khoải, lo lắng như còn thiếu một điều gì đó. Và Chúa Giêsu đã lấp đầy mọi khoảng trống trong tâm hồn và thỏa mãn mọi khát vọng cuả ông.
Giờ đây ông cảm thấy thư thái, bình an trước cuộc. Đây quả là một sự hoán cải sâu xa xuất phát từ nội tâm của Giakêu. Tất cả chúng ta cũng đang cần sự hoán cải đó. Mỗi người chúng ta cũng có khả năng hoán cải như Giakêu nhưng khả năng đó còn đang bị đóng kín và chưa được khơi dậy. Chúng ta đang sống trong sự khao khát hoán cải mỗi ngày để biến đổi một con tim hẹp hòi thành con tim quảng đại, từ một con tim chai đá cho đến một con tim bằng thịt biết yêu thương.
31. Tôi phải lưu lại nhà anh
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: - Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); - Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); - Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: - Con người và ước muốn (cc. 2-3); - Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam