Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 92
Tổng truy cập: 1364193
NỖI LÒNG CỦA CHA
NỖI LÒNG CỦA CHA
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như một người làm công thôi. Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
48.Lạc mất - McCarthy
Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng không có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà một mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.
49.Tha thứ
Có một vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay, đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ với câu hỏi:
- Trong một tuần lễ, bạn điều trị được bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù, thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này hay chưa:
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
- Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
50.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bình thường, cha mẹ có còn yêu thương con cái khi chúng bất hiếu hay tệ bạc với mình không? Tại sao? Thái độ của Thiên Chúa thế nào?
2. Giữa hai thái độ: tha thứ và kết án, thái độ nào là thái độ của bậc cha mẹ? thái độ nào có tác dụng làm người tội lỗi trở lại với đường ngay nẻo chính hơn? Những người lãnh đạo trong Giáo Hội, trong các hội đoàn nên có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho con cái tất cả mọi lỗi lầm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
a/ Tình thương vô hạn của Thiên Chúa: Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha (chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ). Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là: (1) sự tha thứ vô điều kiện, và (2) sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Kitô: «Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,7).
b/ Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa: Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi «anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để» và ngay tức khắc ra lệnh cho «các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!». Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa khi Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa! Ngài đã được thánh Gioan định nghĩa là Tình Thương (x. 1 Ga 4,7-8), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa, nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi!
2. Hãy tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối hận: «Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...», thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng hạn, Âu-Tinh, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội, Âu-Tinh đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì sao? Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc (x. Mt 16,19; 18,18), thiết tưởng Giáo Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giêsu kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các tiên tri giả mà thôi!
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì trở về làm gì? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giêsu là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối với con. Amen.
51.Tình thương vô biên
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”
Xưa nay, trong xã hội, thường có hạng người đa nghi, hay dòm ngó, xét nét người khác. Việc người thì sáng việc mình thì quáng. Nhóm Biệt phái và luật sĩ Do-thái thuộc về hạng người ấy. Họ tìm cách để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói, trong việc làm. Họ không thể vạch ra những sơ hở của Chúa trong lời giảng dạy thì họ theo dõi mọi cử chỉ, mọi giao dịch của Chúa. Chúa Giêsu lại không mấy quan tâm đến. Ngài đi nhiều lần với những người thu thuế, vào trọ trong nhà họ, ngồi ăn với họ; Ngài để cho người đàn bà được coi là tội lỗi đem thuốc thơm xức, xõa tóc lau, lại còn hôn cả lên bàn chân. “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sợ đụng đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7, 39).
Ngài đi xuống hố thẳm tội lỗi để “cứu những gì hư mất”.
Để minh giải trước bọn đối thủ, nhất là để nói lên tình thương của Ngài đối với người tội lỗi, Chúa Giêsu đã để lại 3 dụ ngôn của Ngài thật cảm động. Hơn nữa, đây không phải chỉ là những dụ ngôn mà là những lời cầu nguyện sống, rất thực tế, đánh động lòng chúng ta là kẻ tội lỗi.
Đó là câu chuyện con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là câu chuyện người con trai đi hoang hối cải trở về. Trong cả ba câu chuyện, điểm nổi bật hơn cả, đáng chú ý hơn cả, đánh động tâm hồn hơn cả, là sự vui mừng của Thiên Chúa khi gặp lại những người hư mất sau bao công chờ đợi tìm kiếm.
Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn năng mà lại vui mừng. Thật là một mầu nhiệm: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Nhà Tiên tri Mikha cũng đã nói đến: “Có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Đây cũng là bài học cho chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta tuyên bố tha cho kẻ xúc phạm, làm cực lòng ta, nhưng ta vẫn giữ một thái độ lãnh lẽo, mặt nặng như chì với họ.
Ngày 5-7-1902, Maria Goretti bị thanh niên Alexandro đâm 18 lát dao, vì muốn bảo toàn đức trong sạch. Trước khi chết, vô vui vẻ tha thứ cho hung thủ và “muốn cho Alexandro được về Thiên Đàng với cô”. Bức gương của vị nữ thánh phản ánh tình thương hay tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn thứ ba về người con trai đi hoang trở về lại càng tô điểm mối tình Chúa thương ta bằng những nét thật sâu đậm. Đọc lại cuộc đón tiếp vồn vã của người cha già với những cái hôn nóng hổi, với nhẫn xỏ tay, áo đẹp phủ người, tiệc tùng thịnh soạn, có người cho rằng làm gì cóm một người cha tốt lành quá như vậy đối với người con thất hiếu bất trung? Nhưng nên nhớ rằng đây chỉ là hình bóng phai mờ của người Cha trên trời đầy tình thương xót hay tha thứ. Tình thương của chúa thật vô biên, “thương đến tận cùng”.
Lạy Đấng chăn chiên, hãy để lại đó 99 con kia,
Và mau đi tìm con chiên duy nhất đã thất lạc,
Hãy đi tìm con, vì con đang tìm Chúa.
Hãy đón nhận con, vác con trên vai Chúa…
Dưới đất Chúa ban vơn cứu độ, và trên trời sẽ có niềm vui lớn.
(Thánh Ambrosiô thành Milan)
52.Mầu nhiệm Thánh thiện và tội lỗi
(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin này là điểm lại lịch sử đức tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta điểm lại lịch sử lạ lùng về mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi của nhân loại cũng như của từng người chúng ta.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: Xh 32, 7-11.13-14
Thiên Chúa đã yêu thương, chọn một dân bơ vơ, vất vưởng, rày đây mai đó làm dân riêng của mình: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh 6, 7). Ngài đã sử dụng “cánh tay quyền lực của Ngài” để “quyến rũ” dân, không phải vì Ngài cần được người ta tôn thờ, nhưng bởi vì: “Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với các tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Xh2, 24). Sau khi dùng Môsê đưa dân vượt qua biển Đỏ, thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, Thiên Chúa đã gặp gỡ riêng tư với ông để có những kế hoạch dành cho dân tộc Israel: “Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi và ông đi lên” (Xh20, 20b).
Thế nhưng sự việc xảy ra là: “Dân thấy ông Môsê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aaron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai Cập” (Xh 32, 1).
Thiên Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó nên đã “méc” ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và bảo: đây là thần của chúng ta” (x. Xh 32, 7-9). Chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Thiên Chúa, để thấy được sự nỗi giận của Thiên Chúa là hoàn toàn đúng.
Một người mới cưới vợ, cô vợ này xấu xí lắm, nhưng anh chồng vẫn thương lạ thương lùng. Một thời gian sau, anh chồng có công việc phải đi vắng, cô vợ này ở nhà rước một người thanh niên khác về và bảo: đây là chồng tôi. Cô vợ này ôm ấp, tình tứ với người thanh niên “mà cô gọi là chồng” ngay trước mặt người chồng cũ của mình, thì thử hỏi người chồng đó có chịu nỗi không? Trời đất ơi, chắc tức, giận, và có cả sự kinh tởm không thể tưởng tượng được!
Thiên Chúa đã đòi tiêu diệt dân này, và sẽ thay thế bằng nhà của ông Môsê. Nhưng chúng ta để ý thái độ của ông Môsê, quả thật là một con người tuyệt vời. Nếu là chúng ta, hổng chừng chúng ta sẽ nói: “Được đó, Chúa giết sạch hết đi, chừa lại nhà của con thôi, con sẽ làm cho Chúa được vinh quang, rạng rỡ…”. Đằng này: “Ông lại cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại”. Chắc có lẽ ông cũng dùng những lời nói chơi, những lời xoa dịu cho Chúa mát bụng: “Thôi Chúa ơi, có gì đâu mà giận dữ vậy, Chúa phải vất vả lắm mới đưa được dân này ra khỏi đất Ai Cập. Với lại tụi nó mới quá mà. Bây giờ giả dụ tụi nó có làm gì sai, thì thây kệ tụi nó, Chúa chỉ cần nhớ đến mấy người lớn, ông Apraham, Isaac, Giacop, bạn thân của Ngài không hà, nể họ mà tha cho dân lần này đi nghe Chúa!”. Nhờ vậy mà: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được 3 điều:
Thứ nhất, không phải dân chúng bỏ Chúa, không tin Chúa nên sụp lạy con bò vàng, mà bởi vì họ muốn một vị Thiên Chúa có hình ảnh cụ thể, một vị Thiên Chúa như họ muốn. Hay nói cách khác, họ muốn một Thiên Chúa vừa với tầm nhìn của họ.
Thứ hai, hình ảnh ông Môsê, một khi đã nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân, ông coi dân như chính bản thân mình, gắn bó với dân, không màng chi đến những lợi lộc cá nhân, coi tội lỗi của dân chính là tội lỗi của mình.
Điểm thứ ba quan trọng hơn, đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tuyển chọn. Sẽ có những lúc họ làm cho Thiên Chúa nỗi giận, nhưng giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Ngài sửa dạy họ để mỗi ngày họ nên tốt hơn. Đó là mầu nhiệm tội lỗi và thánh thiện nơi con người và từng người chúng ta.
2. Đáp ca: Tv.50
Đây là thánh vịnh nổi tiếng về lòng ăn năn sám hối. Nó là tâm tình của vua Đavit sau khi được Thiên Chúa cho biết những tội lỗi tày trời của ông. Ông đã phạm tội ngoại tình, hơn thế nữa, để ngoại tình ông đã bày mưu giết người, mà người đó lại là một vị tướng giỏi của ông. Ông không che giấu, không biện minh, mà chỉ biết nói: “Nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của Chúa, nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người”. Mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi được đan xen nơi con người vua Đavit.
3. Bài Đọc II: 1Tm 1, 12-17
Thánh Phaolô trong thư gửi cho ông Timôthêô đã nói rất rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô đã đến thê gian để cứu những người tội lỗi”, ông cũng không ngần ngại xác nhận: “Mà kẻ đầu tiên là tôi’’ (1Tm1, 15). Ông không giấu diếm về quá khứ của mình: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tm1, 13). Tuy nhiên: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1Tm1, 14). Có ai ngờ một người bắt đạo lại trở thành một người giảng đạo cách nhiệt thành. Đó là mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi nơi cuộc đời Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
4. Tin mừng: Lc 15, 1-32
3 dụ ngôn trong đoạn Tin mừng hôm nay làm nổi bật khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa chúng ta là Đấng giàu lòng thương xót.
Chúng ta nhớ bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, đổ máu mình ra để chuộc tội cho muôn người. Tuy nhiên, những người biệt phái và Pharisêu thì lại bực bội, khó chịu khi thấy Chúa Giêsu “đón tiếp phường tội lỗi”. Hơn thế nữa còn “đồng bàn với quân thu thuế và phường tội lỗi”, nghĩa là tỏ ra mình thuộc về phe của những người đó.
Để trả lời cho bức xúc của những người được cho là đạo đức, thánh thiện, Chúa Giêsu đã kể một loạt 3 dụ ngôn về lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cả 3 dụ ngôn đều làm nổi bật sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Ngài đi bước trước để tìm kiếm những thứ đã hư mất, những gì là lạc loài và những con người tội lỗi. Một mục tử băng rừng vượt suối để đi tìm con chiên lạc. Một bà góa đốt đèn, quét nhà để tìm đồng tiền đánh mất. Một người cha chiều chiều ra ngõ ngóng đứa con trở về, và khi thấy nó về thì chạy lại ôm chầm lấy nó.
Tác giả Cousin đã nhận xét về 3 dụ ngôn này như sau: “Tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chẳng được yêu và cũng chẳng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ”.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một mầu nhiệm. Mầu nhiệm không phải là sự thánh thiện, càng không thể là tội lỗi; mà mầu nhiệm ở chỗ “đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
II. MẦU NHIỆM ĐAN XEN GIỮA THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI
Đâu là sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, khiến nó trở thành một mầu nhiệm? Thưa đó chính là lòng hoán cải phát xuất từ một tình yêu chân thành.
1. Hoán cải là nhìn lại mình:
Nơi mỗi con người, ranh giới giữa sự thánh thiện và tội lỗi chính là sự trở về. Chính con tim sẽ đẩy lùi tội lỗi và hướng đến thánh thiện. Hay nói cách khác nhờ tình yêu mà chúng ta sẽ quyết tâm từ bỏ những gì bất xứng để hướng đến những gì là xứng hợp. Các nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai”. Với thân phận mỏng dòn của một con người, chắc chắn chúng ta sẽ bị ma quỷ cám dỗ để đi nghịch lại đường lối của Thiên Chúa. Nhưng cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta biết vươn lên, vượt thoát khỏi những cạm bẫy của ma quỷ.
Tình trạng bi thảm của con người là không nhận ra được lỗi lầm của mình. Vì vậy mà đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Tội lỗi lớn nhất của con người là cho rằng mình không có tội”. Luôn luôn nghĩ rằng mình công chính, thánh thiện. Luôn luôn cho rằng mình không làm gì sai.
Người ta kể quỷ đến trách Chúa: “Tại sao con người làm biết bao nhiêu tội mà Chúa cũng tha thứ hết, còn tôi chỉ phạm một tội thôi mà Chúa không tha?” Chúa hỏi nó: “Thế có bao giờ ngươi xin Ta tha thứ cho ngươi chưa?” Nghe đến đó, quỷ ngoảnh mặt bỏ đi.
Ngạn ngữ Đức có câu: “Sa ngã vào tội chính là con người, nhưng ở lại trong tội chính là quỷ sứ”.
Chúng ta hãy thường xuyên nhìn lại những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình; nhìn lại những dự tính, những chương trình của chúng ta; nhất là nhìn lại đời sống đức tin của mỗi cá nhân để kịp thời chỉnh đốn những sai lỗi và sai xót.
2. Hoán cải là rộng lượng với người khác.
Thiên Chúa biết được quá khứ tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài cũng biết cả tương lai của chúng ta nữa. Như người cha biết chắc sẽ có ngày con trai mình trở về nên chiều chiều ra ngõ ngóng trông. Trong việc chờ mong của người cha đã có ý định tha thứ. Tuy nhiên người con cả trong nhà lại không muốn cha mình tha thứ cho đứa em. Thái độ đó hoàn toàn đi ngược lại với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn Thiên Chúa, muốn người khác tha thứ cho mình, mà mình lại không muốn tha thứ cho người khác. Vì vậy hoán cải là chúng ta biết rộng lượng tha thứ cho người khác. Khi chúng ta tha thứ cho người khác là chúng ta đang mở đường để Thiên Chúa tha thứ cho mình: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một người, dù cho người đó có cố chấp, có đang trong tình trạng tội lỗi. Đó là con đường của Đức Giêsu Kitô. Ngài đồng bàn với tội nhân, tự xem mình thuộc về phe của họ.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, và tội tày trời: “không đáng là con cha nữa”, thì tình yêu của Thiên Chúa cũng tha thứ, mở ngõ, chờ đợi để được ôm ấp chúng ta vào lòng, miễn là chúng ta biết hoán cải để quay trở về. Đồng thời cũng phải biết rộng rãi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác.
53.Cao vời khôn ví - JM. Lam Thy ĐVD.
Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN 24 TN-C. Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giêsu Ki-tô: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước đó, cũng đám kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thắc mắc như vậy và đã được Đức Giêsu trả lời thẳng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31-32). Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia; nên lần này Đức Giêsu không trả lời thẳng vào thắc mắc của họ, mà kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”.
Dụ ngôn thứ nhất nói về con chiên lạc đàn. Đối với chiên cừu thì những con đi hai bên cạnh hoặc ở cuối đàn thường hay bị lạc bầy, lạc đàn. Lý do chiên bị lạc thường chỉ vì đồng cỏ phía trước mặt đã bị những con chiên đi trước ăn trụi, chỉ còn ở hai bên mới có cỏ, vì thế nên mải mê với những bãi cỏ non xanh, quên mất hoặc không nghe được tiếng chủ chăn, lạc xa bầy đàn. Chủ chăn với tấm lòng nhân hậu, thương đàn chiên như con cái, khi kiểm diện nếu thấy có chiên bị lạc, thì dù chỉ có một con trong tổng số cả trăm con, chắc chắn sẽ bằng mọi cách tìm lại con chiên lạc ấy. Và khi tìm được, sẽ vác nó trên vai đem về với sự vui mừng hân hoan khôn tả và mời mọi người đến "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Dụ ngôn kết bằng Lời Đức Giêsu: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 4-7).
Đến dụ ngôn thứ hai nói về người phụ nữ có 10 đồng quan, đánh mất một đồng, liền thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm, và khi tìm được thì mời hàng xóm láng giềng lại để "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 8-10). Thực tế, có thể không có trường hợp tương tự như người phụ nữ trong dụ ngôn. Mất có một đồng quan, tiếc của, tìm cho kỳ được thì có thể; nhưng mời xóm giềng lại chung vui thì hơi quá! Tuy nhiên phải hiểu đây là một dụ ngôn, mà đã nói đến dụ ngôn (ví ngầm) là muốn nói đến cái ngụ ý ẩn trong câu chuyện kể hiện thực. Cụ thể hơn, đó là cách dùng con vật (chiên, cừu), hoặc vật chất (đồ dùng, tiền bạc) để nói về con người. Ca dao hay truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu những ngụ ngôn dùng cách này. Đức Ki-tô đã kết lụân dụ ngôn này rất rõ ràng: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Cuối cùng, dụ ngôn thứ ba (Lc 15, 11-32) kể lại chuỵên một người có hai đứa con trai. Khi được chia gia tài thì người con thứ hai đã chứng tỏ mình là một “phá gia chi tử” (người con phá nhà) bằng cách “thu góp tất cả (phần tài sản được chia) rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi đã nhẵn túi, anh ta mới “Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều), đến cám heo cũng không có mà ăn, liền hồi tâm và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu ("Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”).
Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được, nhưng đến như mất một đồng quan mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ đàn chiên, người chủ đồng tiền hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.
Như vậy là đã rõ: con chiên lạc, đồng tiền bị mất hay đứa con hoang đàng cũng chỉ là hình ảnh phản ánh trong muôn một bản tính con người trần thế. Kể từ khi Nguyên tổ loài người sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị, đã kéo theo hệ luỵ cho con cháu đến muôn đời muôn kiếp, để tội lỗi trở nên như một bản tính cố hữu. Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không.
Đối với chủ con chiên bị lạc, chủ đồng tiền bị mất hay người cha của đứa con hoang đàng, thì luôn luôn và mãi mãi vẫn rất vui mừng khi tìm lại được con chiên, tìm thấy đồng bạc hoặc đứa con biết ăn năn sám hối trở về. Người chủ, người cha ấy đối với những cảnh “đã lạc, đã mất nay lại tim thấy, đã chết nay lại sống” luôn tỏ ra bao dung độ lượng với tấm lòng nhân hậu vô bờ bến. Đó chỉ có thể là Thiên Chúa với Tình Yêu vô lương dành cho con người. Một minh hoạ sống động cho cảnh “người con đã chết nay lại sống”, là chính tác giả bài đọc 2 trong Thánh lễ CN hôm nay: Thánh Phao-lô với biến cố Đa-mat (Cv 9, 1-19).
Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hũu Ti-mô-thê đã bày tỏ rõ ràng sự vui mừng mà Đức Giêsu Thiên Chúa ban cho ngài. Thánh nhân chân thành cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã được đón nhận cách lạ lùng lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa không thương xót thánh nhân, thì Phao-lô suốt đời chỉ là Sao-lô, một biệt phái rất thông thái nhưng đã tiêm nhiễm giáo lý sai lạc của Do-thái giáo, sống với não trạng và thái độ kỳ thị, chỉ có mình và “phe ta” là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa, còn những kẻ khác (thuộc nhóm “theo Ki-tô”) thì không xứng đáng và cần diệt đi. Sao-lô đã là một con chiên không những lạc bầy mà còn a dua theo sói dữ quay lại mưu toan hãm hại chủ chiên và cả đàn chiên (lùng bắt Ki-tô, sát hại những người theo Ki-tô).
Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Sao-lô đã sai lầm về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em. Lòng Thương xót của Chúa không vì thế mà bị suy giảm, trái lại càng tăng trưởng mãnh liệt, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Và với biến cố Đa-mát, Đức Giêsu Thiên Chúa đã làm cho một kẻ đã chết là Sao-lô được sống lại thành Phao-lô Tông đồ kiệt xuất. Thánh nhân khẳng định chắc nịch: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 15-16).
Người Ki-tô hữu hôm nay rất cần thiết nhìn lại mình xem có phải mình cũng cách nào đó giống Sao-lô hoặc những biệt phái, Pha-ri-sêu… với cái não trạng hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết “săm soi người” mà không biết “xét tật mình”. Từ đó, sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành, cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Hãy cầu nguỵên xin cho được cùng chết đi với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Người. Hãy cùng với Thánh Phao-lô dâng lời tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.” (1Tm 1, 17).
Ôi! Lạy Chúa! “Cao vời khôn ví, tình yêu của Chúa cao vời khôn ví, tình yêu của Người, con lấy gì, Chúa ơi, đền đáp cho cân, Chúa ơi, con lấy gì đền đáp cho cân (là đền đáp cho cân). TK: Thương con thủa rất xa vời (là vời), từ khi chưa chưa có (í-a) mặt trời, (trăng) mặt trăng. Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, một niềm son sắt son.” (TCCĐ “Cao vời khôn ví”). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.
54.Một người cha có hai con trai – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tin Mừng không phải là một đồng bằng, nhưng có những đỉnh cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Luca 15,11-32. Người ta nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa Giêsu làm nổi bật ba nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người con thứ, những cuộc phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung phí món quà cuộc đời khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu. Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều nói điều đó. Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.
Đây chính là mặc khải đáng ngạc nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao! Nhưng dại dột và thậm chí những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này: “Cậu ấy lại được tìm thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa yêu thương đến thế? Có phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người con cả với chúng ta nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau khi nghe những lời đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này tiếp đón những kẻ tội lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y như lời lẩm bẩm của người con cả! Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm bực mình.
Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng bị dồn vào thế bí, cũng đóng kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở rộng vòng tay. Nhưng tôi thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả, thì đạo đức dùng để làm gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?
Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội lỗi, lên án sự vô trật tự, chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ! Chính Thiên Chúa là Đấng chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng cách tỏ ra cứng rắn!
Như thế thì làm thế nào mà mở rộng vòng tay được? Làm thế nào bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn toàn điên rồ của ông, đó là tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?
Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của người cha trước tiên là tình yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu hỏi về những thái độ công chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề nếp như thế nào. Điều cấp bách nhất chính là yêu thương.
Chúng ta, những người công chính, muốn là những người công chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những điều cần thiết, giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất cả đều khá rõ ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.
Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những người công chính vào thời của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ: khởi đi từ sự công chính, họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương, nhưng họ vẫn ở trong những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong cũng những giới hạn đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội lỗi!”, họ nghĩ như thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung chúng ta chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm chí lại tốt cho chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người kia đâu!, xem nào! Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu thương họ được.
Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không có ai bị loại bỏ, rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của Ngài. Và chúng ta là những người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt mình vào trong tình yêu thương.
Chúng ta không nên chấp nhận tất cả, chúng ta phải chiến đấu chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng làm những điều đó trong tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu thương chúng ta Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến đấu tội lỗi nơi chúng ta, không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt được suy tư Tin Mừng trong sáng duy nhất này: luôn luôn đặt mình trong tình yêu. Khi tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.
Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều có thể trở về lại sự sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã chết mà nay vẫn còn sống!”.
55.Chứng từ của lòng sám hối
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.
56.Huyền nhiệm yêu thương - Trầm Thiên Thu
Tình yêu của con người (tình mẫu tữ, tình phụ tử, tình phu thê, tình bạn, tình láng giềng,…) chỉ là tình yêu phàm tục, thế mà chúng ta còn khó lý giải xác đáng, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
“Tình yêu thương con người là tài sản quý giá nhất” (tục ngữ Ả Rập). Tình yêu chân chính không xói mòn theo thời gian và cũng chẳng biến đổi theo hoàn cảnh. Tình yêu luôn huyền diệu, tính túy và thuần khiết, không biến động theo ý muốn của chúng ta. Có thể ví tình yêu như chiếc đồng hồ cát có hai ngăn, ngăn lý trí và ngăn trái tim, ngăn này đầy thì ngăn kia trống.
Mẹ Thánh Teresa Calcutta (1910-1997) nói về tình yêu với những lời giản dị mà sâu sắc: “Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình. Chúng ta hãy luôn gặp nhau với nụ cười, bởi nụ cười là điểm bắt đầu của yêu thương. Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa. Những lời tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng thực sự vĩnh cửu. Điều chúng ta cần là yêu mà không mệt mỏi. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu”.
Giáo hội Công giáo đã long trọng tuyên thánh cho Mẹ Teresa ngày 4-9-2016. Mẹ là một phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có trái tim vĩ đại khả dĩ chứa đựng cả thế giới. Ngay khi còn sinh thời, Mẹ đã nổi tiếng khắp thế giới về lòng nhân hậu, đến nỗi Australia tỏ lòng kính phục Mẹ nên đã làm tem in hình Mẹ Teresa, sản xuất tháng 10-2015, ghi nhớ dịp Mẹ được chính phủ tặng Huân Chương năm 1982. Mẹ Teresa đã đến Australia 12 lần, Việt Nam cũng được diễm phúc đón Mẹ 3 lần (tháng 9/1991, tháng 11/1993, tháng 4/1994). Mẹ đã đến nhà thờ Thanh Đa – TGP Saigon, nhà thờ Thái Hà – Bắc Việt, và một số nơi khác).
Tình yêu thương là một huyền nhiệm – huyền bí và mầu nhiệm, nghĩa là chúng ta không tài nào hiểu thấu với trí tuệ phàm nhân. Tuy không hiểu thấu và không thể có một định nghĩa trọn vẹn, nhưng ai cũng khả dĩ thể hiện và cảm nhận. Thật là kỳ diệu biết bao!
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã chứng tỏ Lòng Thương Xót với dân Ít-ra-en, nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Thiên Chúa phải nói thẳng với ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập’. Đức Chúa lại phán với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (Xh 32:7-11).
Thương mới cho roi vọt, thương mới sửa trị, thương mới nói tới, nhưng người ta thường cảm thấy khó chịu. Đó là cứu vớt, đó là thương xót. Ngược lại, không thương thì mặc kệ, không cần quan tâm, muốn ra sao thì sao, nhưng người ta không biết rằng như vậy mới đáng sợ. Đó là lòng thương xót bị làm ngơ, không được đáp lại.
Tuy nhiên, ông Môsê thân thưa: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (Xh 32:13). Quả thật, “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32:14). Điều này chứng tỏ rằng lời cầu nguyện của người khác là điều cần thiết đối với chúng ta, và việc cầu nguyện cho người khác rất hiệu quả.
Trước khi được Trời cứu thì phải tự cứu mình, trước khi được người khác cầu thay nguyện giúp thì phải biết chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Ai cũng là tội nhân, không ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện liên lỉ, sám hối không ngừng, ăn năn không ngớt luôn là điều cấp bách và cần phải kiên trì: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).
Cầu nguyện liên lỉ là cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, ngay khi mở mắt thức dậy và khi nhắm mắt nghỉ ngơi: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Có nhiều cách ca tụng Thiên Chúa, không nhất thiết phải nói ra bằng lời. Càng tội lỗi càng phải tín thác vào Thiên Chúa, vì tội nhân là “đối tượng” số một của Lòng Chúa Thương Xót. Vả lại, “ở đâu tội lỗi đã tràn lan thì ở đó ân sủng càng chan chứa gấp bội” (Rm 5:20). Vấn đề quan trọng là ĐỪNG NẢN CHÍ hoặc TUYỆT VỌNG. Hãy tin tưởng vào sự thật minh nhiên này: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19).
Mỗi người có một ơn gọi riêng, tất cả là để vinh danh Thiên Chúa mà thôi. Trong thư gởi cho ông Timôthê (1 Tm 1:12-17), ông Phaolô cho biết cách suy nghĩ của ông về ơn gọi của mình, đồng thời cũng là lời tự thú của ông:
“Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người để được sống muôn đời”.
Rất chân thành, và cũng rất can đảm. Chúng ta cũng phải can đảm thú nhận, đừng tránh né, đừng bao che, đừng giấu giếm, đừng biện hộ. Càng chân thành thì càng được giải án tuyên công. Đó là huyền nhiệm của tình yêu thương, là huyền nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót, hãy giữ vững niềm tín thác vào Thiên Chúa! Tại sao? Bởi vì Ngài tuyệt đối từ bi và nhân hậu: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20). Kinh Thánh cho thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vô cùng huyền nhiệm!
Trình thuật Lc 15:1-32 trình bày ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Con Chiên Bị Mất” (tương đương Mt 18:12-14), “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” và “Người Cha Nhân Hậu”.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đúng là lắm chuyện!
Đức Giêsu đặt vấn đề với họ: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai, về nhà rồi mời thân hữu đến chung vui vì ông đã tìm được con chiên thất lạc. Ngài nói với họ: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Ngài nói với họ dụ ngôn khác về một phụ nữ có mười đồng quan và đánh mất một đồng. Bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, bà mời thân hữu cùng chia vui vì bà tìm được đồng quan đã mất. Rồi Ngài xác định rằng, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.
Hai con số đối lập: một đối với chín hoặc chín mươi chín – nhỏ và lớn, ít và nhiều. Tuy nhiên, số ít lại quan trọng hơn số nhiều. Cuối cùng là dụ ngôn đặc biệt: Người Cha Nhân Hậu và Đứa Con Hoang Đàng (Lc 15:11-32), một dụ ngôn thâm thúy và rất quen thuộc. Đứa con hoang đàng là ai? Chắc chắn không ai xa lạ, đó là chính mỗi chúng ta.
Chính Con Thiên Chúa đã chuộc chúng ta về bằng giá máu của Ngài (x. Kh 5:9).
Chúng ta vừa là đứa con thứ, vừa là đứa con trưởng. Là đứa con thứ thì dễ hiểu, vì ai trong chúng ta cũng là tội nhân, là kẻ hoang đàng. Nhưng có lẽ chúng ta ít thấy mình là đứa con trưởng. Thật ra đứa con trưởng cũng chẳng tốt lành gì: so đo với người cha, ghen tỵ với đứa em, và kiêu căng – tự nhận mình là đứa con ngoan. Một lúc phạm cả ba tội, thế mà vẫn mạo nhận là công chính. Quá ảo tưởng!
Mẹ Thánh Teresa (1910-1997) đặt vấn đề về cách yêu thương hiệu quả: “Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa”. Người con trưởng đã phán xét người khác nên khó thể hiện lòng yêu thương với chính đứa em ruột của mình, thậm chí kể cả với người cha.
Yêu thương người yêu thương mình, hợp ý mình, cùng phe với mình thì quá dễ dàng, nhưng yêu thương người đối lập với mình thì thật khó biết bao! Nhưng phải yêu thương tới mức đó mới đúng là Kitô hữu. Người cha nhân hậu giải thích với người con trưởng: “Chúng ta PHẢI ăn mừng, PHẢI vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY”. Ước mong mỗi chúng ta có thể “sáng mắt” khi được giải thích như vậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết yêu thương vô điều kiện, không mệt mỏi. Xin giúp con gặp được Ngài khi con giao tiếp với tha nhân, và xin cho mọi người cũng gặp được Ngài khi họ giao tiếp với con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam