Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 80

Tổng truy cập: 1356628

Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG

Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG

 

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con". Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.

Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.

Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.

Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.

Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.

Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.

Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.

Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.

Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.

Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.

Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.

Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.

Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.

Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.

Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.

Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.

Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.

Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.

Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Gợi Ý Chia S

Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc... của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?

Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó khong? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khđau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta".

 

2.Yêu như Chúa yêu

(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra mot khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phai yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.

Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.

Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những ngươi nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dau để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha th. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tien, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được an no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đep, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.

Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.

Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?

2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?

3- Đối với ban, yêu thương người khác dễ hay khó?

4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.

 

3.Ơn cứu độ muôn dân

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Dựa trên truyền thống các ngôn sứ, Người Do Thái tin rằng ơn Cứu độ chỉ được ban cho dân tộc Do Thái, vì đó là dân được tuyển lựa. Các môn đệ đều là người Do Thái. Họ đã theo Chúa Giêsu và được Người giáo huấn. Tuy vậy, các ông vẫn mang não trạng chật hẹp của truyền thống. Một số trong các ông tin Thày mình là một chính trị gia, đến để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người La mã, vì thế, vào lúc Chúa phục sinh quy tụ các ông và chuẩn bị lìa xa các ông mà về trời, vẫn có người trong số môn đệ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?” (Cv 1,6).

Chính vì ảnh hưởng bởi não trạng tự tôn dân tộc, mà ông Phêrô lúng túng khi có người ngoại, tức là không phải người Do Thái, xin gia nhập Đạo. Chính Thiên Chúa đã can thiệp qua hai thị kiến để giúp ông Phêrô và các tông đồ thoát khỏi những băn khoăn này. Ngài vừa sai sứ thần đến với ông Cornêliô, vừa cho ông Phêrô thấy một thị kiến là một tấm khăn lớn buộc bốn góc từ trời thả xuống đất, trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết, cùng mọi thứ chim trời. Đó là những con vật luật Do Thái cấm ăn vì coi là vật không thanh sạch. Chúa đã giải thích cho ông Phêrô: đừng gọi là ô uế những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch. Qua thị kiến này Chúa muốn khẳng định: ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô dành cho mọi dân tộc, không loại trừ ai. Vì Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân, là Mặt trời công chính rạng soi cho mọi nước.

Thực ra, trong giáo huấn của Chúa Giêsu, đã nhiều lần Người khẳng định tính hoàn vũ của ơn Cứu độ. Người nhấn mạnh đến tình thương của Chúa Cha, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những kẻ lành cũng như người dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất nhân. Trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi rào cản và thành kiến, đồng thời Người khẳng định: đã đến lúc việc thờ phượng không còn giới hạn bởi ranh giới địa lý hay chủng tộc, mà là lúc những ai thờ phượng Chúa thì thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Qua câu nói của ông Caipha Thượng tế: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, Thánh sử Gioan nhận ra đó là một lời tiên tri: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối” (Ga 11,50-52). Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Như thế, cây thập giá, hay đúng hơn là cái chết của Chúa Giêsu là điểm quy tụ muôn dân. Cây thập giá cũng là điểm kết nối, giao hoà Thiên Chúa với nhân loại, để rồi từ nay, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nhưng tất cả những ai đang sống dưới gầm trời này, nếu họ kêu cầu Danh Đức Giêsu Kitô, thì họ được cứu độ. Mặc dù Giáo Hội tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Giáo Hội cũng công nhận những tinh hoa của các nền văn hoá như hạt giống của Lời. Vì vậy, những ai không được nghe nói đến Chúa Giêsu và ơn Cứu độ của Người, nhưng thành tâm sống theo chỉ dẫn của lương tâm, thì họ cũng thuộc về Vương quốc Chân lý của Chúa Giêsu.

Với lời tuyên bố của thánh Phêrô: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” Giáo Hội sơ khai đã bước sang một trang sử mới. Từ nay mọi người đều có thể gia nhập Đạo Chúa. Đức tin vào Đức Giêsu đã vượt qua biên giới Do Thái để đến với dân ngoại. Sau này, với thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, một viễn cảnh mới được mở ra. Thánh Phaolô xác tín rằng, mình được chọn để đem Tin Mừng của Chúa đến với các dân ngoại. Vì vậy, ông nỗ lực cố gắng thiết lập các cộng đoàn. Những cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô là những gian nan chông gai, nhưng vị tông đồ dân ngoại vẫn can đảm hy sinh, vì ông được Chúa nâng đỡ: “Ơn Ta đủ cho con”.

Ơn Cứu độ thực hiện trong Đức Kitô đã mở ra một thế giới mới. Không còn biên giới, không còn rào cản, không còn phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ. Thế giới mới Chúa Giêsu thiết lập có một ngôn ngữ mới: đó là tình yêu. Tiếp nối lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Chúa nhật trước, lời mời gọi “ở trong Thày” được nhắc đi nhắc lại, như một điểm nhấn nổi bật. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Mẫu mực của yêu thương không phải là một vĩ nhân trần thế, nhưng là chính Chúa Giêsu. “Như Thày đã yêu”, đó chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa Giêsu đã chứng minh lời dạy này bằng cuộc khổ nạn thập giá.

Một khi chuyên tâm thực hiện lời dạy yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở thành “bạn hữu” của Người. “Anh em là bạn hữu của Thày, nếu anh em thực hành những điều Thày truyền dạy”. Thật là một vinh dự lạ lùng! Chúng ta là con người còn đầy yếu đuối và tội lỗi, lại có thể trở nên bạn hữu của Đấng Cứu thế. Quả vậy, một khi thực thi những giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương, thì chúng ta sẽ luôn có Chúa là người đồng hành, là người chia vui sẻ buồn, là người tâm huyết, gần gũi và thân tình. Khái niệm Chúa Giêsu là “bạn hữu” giúp chúng ta đi vào sự kết hợp bền chặt thâm sâu với Người, nhờ đó, chúng ta có sự bình an và niềm vui nội tâm, là nền tảng định hướng cho mọi suy tư và hành động trong cuộc sống hằng ngày.

Yêu thương là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vì chính Ngài đã yêu chúng ta trước (Bài đọc II). Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về đức yêu thương. Người đã hiến mạng sống mình trên thập giá vì yêu thương nhân loại và để đền tội cho chúng ta. Người tín hữu được Chúa sai vào lòng cuộc đời sống và loan truyền tình yêu thương cho tha nhân, đồng thời làm chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống. Vâng, Chúa đã chọn và đang cắt cử chúng ta vào cuộc sống xã hội còn đầy những khó khăn phức tạp, để hát lên niềm vui của Tin Mừng và để làm chứng Chúa đã phục sinh.

Qua việc thực thi đức yêu thương, chúng ta giới thiệu ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết cho muôn người, Đấng Cứu độ muôn dân. Đấng ấy đang sống và hiện diện giữa chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ