Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 134

Tổng truy cập: 1350063

PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN

PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN

 

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.

“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.

Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.

“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).

Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: “Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.

Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.

Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).

Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.

2. Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?

3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.

 

12.Phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ.)

“Họ hết rượu rồi.” (Ga 2,3)

Quý vị thân mến,

Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ mà các Thánh sử đã kể lại. Những phép lạ ấy không chỉ thể hiện uy quyền của Con Thiên Chúa đến từ trời cao, nhưng còn thể hiện lòng thương xót vô bờ của thầy Giêsu dành cho nhân loại. Chúng ta vẫn biết phép lạ là việc Thiên Chúa làm, có thể nhận biết bằng giác quan, như dấu chỉ của sự hiện diện và ý hướng cứu độ của Ngài. Trong Chúa Nhật 2 thường niên hôm nay, độc giả sẽ ngạc nhiên khi thấy phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm lại liên quan đến một đám cưới của người Do Thái. Chỉ có thánh Gioan “quay lại” cảnh phép lạ này tại Cana, gần Nadarét, miền Galilê. (Ga 2,1–11).

Sau khi chọn gọi các môn đệ đầu tiên (trong đó có Na–tha–na–en)[1], Đức Giêsu cùng với các ông đến miền Cana để tham dự một đám cưới. Cũng như Nadarét, làng Cana chẳng giàu có gì. Tại sao họ lại được mời? Có thể gia đình cô dâu chú rể có họ hàng với Đức Mẹ, nên các môn đệ cũng đi “ăn ké”. Hoặc Na–tha–na–en là người Cana nên có liên hệ với đám cưới này, rồi họ mời ông và những người khác trong nhóm của ông. Lý do thứ ba có thể gia chủ mời cả Đức Mẹ, Đức Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới. Càng đông, càng vui! Dẫu sao, trong tiệc cưới ngày hôm ấy có Maria, Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Dĩ nhiên rượu là thứ không thể thiếu trong một bữa tiệc, nhất là tiệc mừng ngày thành hôn.[2] Thời đó người ta thường dùng rượu nho để nâng ly chúc mừng cô dâu chú rể. Tuy nhiên đám cưới này đang rơi vào thế kẹt vì thiếu rượu. Chạy đâu đi mua hoặc đi mượn bây giờ! Với số lượng thực khách đông đảo, chắc hẳn đôi tân hôn không thể làm gì khác ngoài lời xin lỗi hết rượu.

Trong lúc ấy, chính Mẹ Maria đã nhận ra lo lắng “trăm mối tơ vò” của gia chủ. Mẹ nhạy cảm nhận ra nhu cầu cấp thiết của đôi tân hôn. Có thể Mẹ là người trong dòng họ gia đình, nên Mẹ sớm nhận ra vấn đề ấy. Biết sao bây giờ? Mẹ cũng chẳng làm gì khác hơn là than thở với Giêsu, con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi?” Hẳn là Mẹ không yêu cầu Giêsu làm một phép lạ, bởi từ trước tới giờ Mẹ chưa từng thấy con của mình làm dấu lạ hay phép lạ nào. Thôi thì Mẹ chia sẻ lo lắng với Giêsu để chia vơi nỗi lo cùng đôi tân hôn.

Mẹ và các môn đệ ngạc nhiên về câu trả lời của Thầy: “Hỡi người nữ, cái gì cho con và cho bà.” (dịch sát nghĩa). Thầy gọi Mẹ Maria trong đại từ  “người phụ nữ” để cho thấy kiểu nói của người Do Thái thời ấy: Thầy từ chối can thiệp vào trường hợp này, vì chưa đúng lúc. (Giống như ngày xưa vua Đa–vít trả lời bà Xơ–ru–gia: “Chuyện của ta can gì đến các người, hỡi các con bà Xơ–ru–gia.” (2 Sm 16,10.) Thôi thì Thầy đã từ chối làm chuyện phi thường lúc này. Biết sao được?!

Mẹ bước ra gặp các gia nhân dặn họ nếu Thầy bảo gì các ông cứ làm theo. Hóa ra Mẹ vẫn còn hy vọng từ người con của mình. Đừng quên chính Chúa Giêsu “nhờ sự tin tưởng của cha mẹ mà Ngài lớn lên trong tự do và học cách bước đi với tất cả những người khác.” (Tông Huấn Đức Kitô Sống, số 29).

Nhìn quanh đám tiệc, chú ý đến cô dâu chú rể, Đức Giêsu chắc hẳn thương cho đôi tân hôn. Thầy cũng sợ niềm vui của họ không trọn vẹn nên bảo các gia nhân đổ nước vào chum. Ở đó có sáu cái chum, mỗi chum chứa độ 80–120 lít nước. Thế là họ đổ đầy nước đến miệng chum. Khi hoàn tất nhiệm vụ, Đức Giêsu bảo họ múc đem cho quản tiệc. Ông ta nếm thử nước đã hóa thành rượu thì ngạc nhiên khôn cùng. Ở đâu ra thứ rượu ngon như thế này! Ông còn trách tân lang tại sao không thết đãi rượu ngon trước.

Từ giây phút đó, đám cưới thêm vui vì có rượu ngon hảo hạng, đôi tân hôn thêm hạnh phúc vì có Thầy Giêsu làm dấu lạ đầu tiên trong tiệc cưới của mình. Chúc mừng đôi bạn! Từ ngày hôm đó, phép lạ này luôn nổi tiếng trong những đám cưới của người Kitô giáo. Nổi tiếng vì đôi bạn được Chúa Giêsu thánh hóa. Ngài nâng ly rượu mừng, chúc phúc cho mối tình của đôi bạn. Qua đó, Thiên Chúa kết hợp họ “thành một xương một thịt.” Ngài ban ơn thiêng để kết nối đôi bạn trọn đời bên nhau. Ngài thánh hóa gia đình mới để trong đời sống, họ luôn “dắt dìu nhau trên đường tình, dìu nhau trên con đường mến yêu.”

Nếu có dịp đi Đất Thánh, người ta thường thăm lại ngôi nhà đặc biệt ở tại Cana. Nơi đây còn lưu giữ biết bao kỷ niệm của lần Đức Giêsu làm phép là đầu tiên. Người ta còn chứng kiến các chum rượu cũ sờn với thời gian được đặt dưới tầng hầm nhà thờ. Các đoàn hành hương thường dâng thánh lễ cho các đôi vợ chồng để nhớ lại biến cố ngày xưa với ước mong: Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu vợ chồng.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng nhận thấy nét đẹp và tầm quan trọng của đời sống hôn nhân. Tiếc rằng thời đại hôm nay, cuộc sống gia đình đang phải đối diện với quá nhiều khủng hoảng. Trong gia đình, không phải lúc nào đôi bạn cũng hạnh phúc như ngày thành hôn, không êm đẹp như cái thuở ban đầu. Bởi đó, kiến tạo một gia đình hạnh phúc đòi hỏi rất nhiều tình yêu và ơn sủng. Cần tình yêu để duyên tình của đôi tân hôn mãi nở hoa, cần Thiên Chúa để Người ban ân sủng cho họ trong cuộc sống lứa đôi. Được như thế, chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ làm phép lạ đầu tiên tại Cana, nhưng mỗi ngày, Người vẫn hằng trao ban nhiều phép lạ trong đời sống gia đình.

Hẳn rằng đôi bạn nào cũng muốn mời Chúa đến dự tiệc cưới. Trong ngày thành hôn, Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho đôi tân hôn. Để từ đó về sau, đôi bạn bước vào đời sống gia đình luôn có Chúa ở cùng. Nhờ đó tình yêu của họ luôn thắm mãi tình ban đầu.

“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa đến chung chia cuộc sống với họ. Ước mong mỗi đám cưới luôn có phép lạ xảy ra, vì có Chúa Giêsu hiện diện. Nhờ đó cuộc sống gia đình của chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc dài lâu.” Amen.

----------------------

[1] Thánh Bartolomeo – trong Phúc Âm đôi khi còn được gọi là Nathanael – là một trong mười hai tông đồ. Ngài quê ở thành Cana xứ Galilê.

[2] Hôn nhân trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu: khi hôn ước được ký, việc đính hôn sẽ diễn ra. Sau đó khoảng 1 năm, hai người sẽ làm đám cưới, lễ thành hôn. Sau lễ cưới, dĩ nhiên là tới tiệc cưới thường diễn ra bên nhà trai, kéo dài cả tuần lễ.

 

13.Rượu ân sủng

Đời sống càng khó khăn thì cuộc sống càng lo âu. Mọi lo âu đều nhằm vào việc giải toả những vướng mắc cho cuộc sống. Chúng ta lo lắng về sức khoẻ của mình, về cha mẹ, con cái, bạn bè, về công việc và về những thứ cần chi tiêu...Người chủ tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có những nỗi lo lắng như thế. Ông ta lo lắng vì tiệc cưới mới tới ngày thứ ba mà rượu đã cạn, trong khi đó tiệc cưới tổ chức tới một tuần. Trong truyền thống của người Do thái ngày xưa, tiếp khách là nhiệm vụ thiêng liêng. Vì vậy, nếu thiếu thức ăn, nước uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho gia đình chủ tiệc.

"Họ hết rượu rồi!" Đức Mẹ thấy trước nỗi khổ tâm của gia đình chủ tiệc. Một câu nói tế nhị, không đòi hỏi hay van xin gì mà chỉ trình bày cho Đức Giêsu nỗi băn khoăn của họ. Họ sắp xấu hổ mà báo tin cho khách mời dự tiệc là rượu đã cạn. Ai sẽ tiếp giúp họ? Ai có thể duy trì ngày vui nhất đời họ nếu không phải là Con Mẹ? Qua nỗi lo lắng của Mẹ. Đức Giêsu nhìn thấy dân Do thái đang khắc khoải mong chờ Đấng Cứu Thế giải phóng họ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến vật chất, và những hình thức bề ngoài...ĐG đã cố gắng đưa những người tiếp xúc với Ngài đến một trật tự khác, nhưng thường thì không mấy ai hiểu Ngài? Tại sao? Vì Ngài là một con người siêu việt từ trời cao xuống hay là rượu niềm tin của họ đã cạn?

"Họ hết rượu rồi" Đây chính là nét đặc sắc của đức ái, vào bàn ăn, hãy nghĩ đến người bên cạnh hơn là chính mình; người nghèo lúc nào cũng có bên cạnh, xã hội nào cũng có người nghèo, không nghèo vật chất cũng nghèo tinh thần. Người nghèo hiện diện như một hồng ân của Thiên Chúa, người nghèo hiện diện như một lời mời gọi con người rời khỏi cái vỏ ích kỷ của mình mà trao ban chia sẻ, và người nghèo mời gọi chúng ta trao ban, vì có trao ban chúng ta mới cảm nhận được câu nói thật sâu sắc của Đức Mẹ: "Họ hết rượu rồi". Đức Giêsu coi lời nói nầy như là tiếng thở than của người Mẹ nhân loại đang đau khổ vì những đứa con tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có bao giờ hướng đến một nhân loại đang oằn oại khổ đau như Mẹ không? Bao kẻ bệnh tật, mồ côi, hoạn nạn, lỡ làng, bị thử thách... đang mong chờ lời cầu nguyện của chúng ta. Đức Giêsu đã chấp nhận lời đề nghị của Mẹ, mà nếu Đức Giêsu chấp nhận lời đề nghị của Mẹ thì tôi nghĩ Đức Giêsu trả lời một câu rất dễ thương "Xin Mẹ đừng lo, Mẹ không hiểu việc đang xảy ra đâu; hãy để đó cho Con, Con sẽ có cách thu xếp cho". Quả thế sáu cái chum mà Đức Giêsu bảo gia nhân đổ đầy nước đã biến thành rượu. Đối với người Do thái, số bảy là con số tròn đầy. Vậy con số sáu là con số chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Sáu cái chum nước tiêu biểu cho những cái bất toàn của tập quán và lối sống đạo dân Do thái. Đức Giêsu đã đến để kiện toàn những cái bất toàn của lề luật, thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng... Cụ thể chúng ta thấy mỗi cái chum có thể chứa 80-120 lít. Đức Giêsu đã khiến nước lã trong sáu cái chum biến thành rượu ngon, tất cả khoảng 500-700 lít rượu. Sự kiện này chúng ta cũng đừng hiểu theo nghĩa đen. Vấn đề là khi ân sủng của Chúa đã đến với mọi người thì ân sủng ấy có đủ để cung cấp cho tất cả.

"Đổ đầy tới miệng". Trong đời sống, chúng ta cũng muốn đổ đầy những tiện nghi vật chất như: Một căn nhà sang trọng, một chiếc xe Nouvo, một chiếc di động Nokia đời mới... để sống hợp với nếp sống văn minh, để sống cho ra người có văn hoá, để sống xứng với phẩm giá con người. Điều đó xem ra không có gì ngược lại với Tin Mừng, xem ra cũng là một ước mơ chính đáng và bình thường. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên ước mơ sắm cho mình một bình rượu (không phải là OX, Napoleon, Martin...) nhưng là rượu ân sủng, uống rượu nầy chúng ta sẽ được đức tin, sức mạnh và tình yêu trong Đức Giêsu.

Chi tiết: "Họ hết rượu rồi" so sánh với chi tiết: "đổ đầy tới miệng" cho thấy rằng; những gì chúng ta đã hết, đã cạn thì hãy để cho Chúa đổ đầy miễn là chúng ta có một tâm hồn đơn sơ trong sạch để mau mắn nhận lãnh ơn Ngài.

Chuyện kể rằng:

Có một bà lão đạo đức, nhưng nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua gạo ăn. Hôm nọ, đói quá không làm gì nổi, bà chỉ còn cách quỳ gối giữa nhà, hết lòng tha thiết van nài cùng Chúa: "Lạy Chúa! Xin giúp con có gạo nấu cơm ăn chiều nay, nếu không, chắc con chết mất. Xin Chúa thương con " Lúc đó, một người vô thần tình cờ đi ngang, anh ta giở một trò để tiêu khiển niềm tin của bà. Anh chạy lẹ ra tiệm tạp hoá gần đó, mua một ký gạo, rồi trở về ném túi gạo qua lỗ vách lá, rơi bịch trước mặt bà. Bà lão vô cùng mừng rỡ và hết sức ngỡ ngàng, đến nỗi quên cả đói khát vừa hô to: "Cám ơn Chúa, con cám ơn Chúa."

Bà vừa chạy vừa khoe với lối xóm là Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Thấy bà già đã trúng kế mình, anh chàng vô thần cười chế nhạo, và nói rõ là anh ta vừa ra tiệm tạp hoá mua túi gạo, rồi ném qua lỗ vách cho bà. Nhưng bà lão đáp:

" Có thể là anh mang gạo đến cho tôi nhưng tôi bảo đảm là lời tôi cầu nguyện đã được Chúa nhận lời. Tôi cầu xin chiều nay có gạo nấu cơm, và Chúa đã ban cho tôi y như lời tôi cầu. Tạ ơn Chúa, cám ơn anh. "

Bà lão đã hết gạo, bà đã xin gạo và được gạo, bà tạ ơn Chúa và nhận ra đó là ơn huệ Chúa ban, cho dù gạo đó đến từ một âm mưu đen tối. Nhưng ai âm mưu thế nào không cần biết, chỉ biết tạ ơn Chúa vì đó là ơn lành Chúa ban.

Còn chúng ta, nếu chúng ta chưa có gì trong đời sống cầu nguyện, thì hãy bắt đầu ngay hôm nay. Nếu lòng chúng ta chưa đầy trong đời sống bác ái, thì hãy bước đi đến với người nghèo khổ hoạn nạn, hãy chia sẽ những nụ cười, những cái bắt tay, những lời hỏi thăm... Nếu chúng ta đang lo lắng về những thứ cần chi tiêu trong cuộc sống, thì chỉ có một điều đáng lo là phần rỗi linh hồn. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin... bất cứ lúc nào, khi Chúa bước vào một đời sống, thì đời sống ấy nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon vậy. Những sầu muộn lắng lo sẽ được giải toả. Lúc đó chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin là tâm tình tạ ơn. Amen.

home Mục lục Lưu trữ