Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 44
Tổng truy cập: 1360975
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đa-vít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)… còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế”… cho những người khác (Xh 19,5-6).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN- Chú giải của Fiches Dominicales
*1) Một cử chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới…
Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cá lên nhiều đến dư dật (Chúa nhật thứ l8). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19). Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch, pbá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ, nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ánh con tin của họ. Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan ngoài giáo.
Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “dơ”, Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêu đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan, để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về “kẻ ngoại” những kẻ “dơ”, những dân mà dân Do Thái coi khinh như những “con chó”. Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do thái chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ mối thù truyền kiếp. “Lạy Chúa, xin thương xót tôi” bà ấy van xin, trong khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu “con vua Đavit”. Trước hết Đức Giêsu làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu van ấy Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những “chiên lạc của nhà Israel” mà thôi. J. Radmakers giải thích: “Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận cùng thế giới” (“Au fil de Evangile selon St Matthieu”, trang 211).
“Lạy Ngài, xin hãy đền cứu giúp” người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời kinh phụng vụ. Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh của con cái – là của dân Do Thái, dân của Lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Tuy câu nói “chó nhỏ” thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn mang vẻ sỗ sàng. Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. “Đúng vậy thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh được ưu tiên, họ là “chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những “miếng bánh vụn” trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa (L’evangile de Matthieu Centurion, trang 167).
Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người “dơ” đối với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền kết luận “Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn bà muốn sao thì được vậy. Đức Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó là con bà được lành.
*2) Báo hiệu một Tin Mừng không biên giới
Tác giả Matthêu thuật lại câu truyện người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại, những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.
Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung cảnh “bẻ bánh”, tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự cách biệt giữa người “sạch” và người “dơ” từ nay không còn nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho dân ngoại, và nhận “bánh của con cái” là lòng tin vào Đức Giêsu.
Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn, Matthêu đà dẫn đến bài học về phái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin viết: “Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại đạo… Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu Thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa không cho họ vào. Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn cản người chiếu sáng cho dân ngoại.” (sđd trang 167-168).
Cuộc tranh luận giữa nhưng Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khấc nhau: cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng cửa để đón những cơ may. Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêu hôm nay câu truyện người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.
BÀI ĐỌC THÊM:
*1/ “Đức tin phá đổ mọi rào cản”.
Người ta không biết tên bà, người ta gọi bà là “người phụ nữ Canaan”. Tuy nhiên bà giữ một vai trò độc đáo Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới, bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc, đến Tyr và Sidon, ngày nay là miền nam Liban. Đã từ nhiều thập kỷ, người Do Thái giừ một khoảng cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung thành với Thiên Chúa Israel khinh miệt. Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà Israel. Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái là ném cho chó con. Và đây chính là lúc sự việc diễn ra. Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại bằng câu ví: “Thât đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: “lòng tin của bà quá lớn…”. Và đứa con được lành bệnh. Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn. Đối với các Kitô hữu đến từ các dân tộc và tôn giáo khác – người ta thường kêu là “dân ngoại” – đoạn Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan. Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này. Tại sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan? Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cùng khám phá ra rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.
*2/ “Đức tin của môt người phụ nữ ngoại
Người phụ nữ Canaan tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên. Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nagiarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tương sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà dáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người. Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam