Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1359251

SỞ HỮU CỦA CẢI VÀ KHƯỚC TỪ CỦA CẢI

SỞ HỮU CỦA CẢI VÀ KHƯỚC TỪ CỦA CẢI

(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Mc 10: 17-27: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Bài Tin mừng giới thiệu với chúng ta một người say mê và chân thành, đến bày tỏ nguyện vọng sâu xa nhất đã bám rễ nơi trái tim con người, nguyện vọng được sống viên mãn...

"Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Bài Tin mừng giới thiệu với chúng ta một người say mê và chân thành, đến bày tỏ nguyện vọng sâu xa nhất đã bám rễ nơi trái tim con người, nguyện vọng được sống viên mãn. Một con người vô danh: hẳn người này có thể là mỗi người chúng ta. Đến với Đức Giêsu là đúng rồi. Nhưng đáp lại được lời đề nghị cũng là lời mời gọi của Người, rõ ràng là việc không đơn giản.

I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Mc 10,17-30.

1. Bài tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22).

Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.

Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên(x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.

2. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27).

Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là”con"(chỉ có ở đây trong Tin mừng Máccô) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.

3. Đức Giêsu giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30).

Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.

II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:

Đức Giêsu đã cho người đến gặp Người hiểu rằng, vấn đề ở đây không còn phải là luật lệ luân lý, cũng chẳng phải là vấn đề sống khổ chế, mà là đi theo Đức Giêsu để tiến về tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Cần phải để cho Đức Giêsu dạy cho biết đi từ một nền luân lý nhắm tìm kiếm sự hoàn thiện đến lô-gích của đức tin, hệ tại chỗ không đặt mình làm trung tâm nữa, nhưng chọn sống theo Tin mừng, theo Đức Giêsu. Trong viễn tượng này, phân biệt giữa”giới răn" và”lời khuyên" chẳng còn ý nghĩa gì cả. Hoặc bước theo Đức Kitô hoặc không bước theo Người. Hoặc túi tiền hoặc sự sống. Bước theo Đức Kitô có nghĩa là để rộng đường cho Thiên Chúa tự do hành động, mà với Người, mọi sự đều có thể được.

III. Gợi ý bài giảng:

1. Một người đi tìm sự sống.

Chúng ta tưởng tượng là người đến gặp Đức Giêsu đang có tất cả mọi sự. Nhưng đến một lúc nào đó, anh hiểu rằng đời sống của anh thiếu mộtđiều gì đó. Rất có thể anh thiếu một cảm thức sâu xa về ý nghĩa của đời sống để khỏi trở thành vô ích. Và anh nhận biết rằng chỉ Đức Giêsu mới đưa lại cho anh câu trả lời đúng đắn nhất. Trước khi trả lời, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ đơn giản nhưng rất tiêu biểu: ”đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến". Người đi xa hơn bộ áo đẹp bên ngoài để nhìn thẳng vào anh ta và để đọc ra những gì đang chất chứa nơi đáy lòng anh ta. Đức Giêsu chính là Lời”xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy…, vì sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi"(Dt 4,12). Thế rồi Người đã khẳng định giá trị cứu độ của việc tuân giữ các điều răn. Đến đây người đối thoại đáp: ”Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ".

2. Phải từ bỏ những cái có hạn để đón nhận ân ban vô hạn.

Tưởng là con người kia đã có đủ, bây giờ chỉ cần làm thêm, Đức Giêsu lại nói: ”Anh chỉ còn thiếu có một điều!". Người đề nghị anh từ bỏ tất cả, nhưng vẫn là của cải có giới hạn, để có”một kho tàng trên trời", tức là ân ban vô giới hạn. Tuy nhiên, việc từ bỏ này lại được thực hiện bằng việc”đi theo" Người mỗi ngày. Thế là người này đã không đủ can đảm đáp trả, vì”có nhiều của cải": anh đành chấp nhận”thiếu một điều", mãi mãi; dù anh”có nhiều của cải", anh sẽ mãi mãi”thiếu một điều"! Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời(x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống. Thật ra, nhận được lời kêu gọi của Đức Giêsu là nhận được Tin mừng, cũng là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỷ(5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.

 

27.Chúa Nhật 28 Thường Niên

(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 28 thường niên B của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giêsu là hiện thân: “vì Thầy và vì Tin Mừng” (Tin Mừng).

Kn 7: 7-11

Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.

Dt 4: 12-13

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người.

Mc 10: 17-30

Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức Giêsu đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giêsu nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.

BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)

Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.

Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành tâm cầu nguyện.

1. Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon:

“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết; tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”. Việc vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12), và từ câu chuyện này tác giả sách Khôn Ngoan sáng tác một đoạn văn (Kn 9: 1-18). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.

Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-mon biết rõ chẳng có gì phải tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với  các bậc quân vương Hy lạp.

2. Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan:

Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.

“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng

còn hơn cả vương trượng, ngai vàng” (7:8).

Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”. Tác giả đã khai triển chủ đề nầy ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với các bậc đế vương:

“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan

đưa chúng ta lên hàng vương giả.

Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,

nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,

thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,

để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).

Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca, vân vân, chưa nói đến các Thánh Vịnh.

Ví dụ như:

“Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,

không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15).

Hay còn:

“Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc,

 hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng.

Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,

không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).

“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”. Với lời nầy, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.

3. Thành quả của Đức Khôn Ngoan:

Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi phẩm chất lời nguyện xin của vua Sa-lô-mon. Để tưởng thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Giêsu hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời nầy sẽ nhận được gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (10: 29-30).

BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)

Thư gởi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô giáo của mình. Bức Thư nầy nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.

Đoạn văn hôm nay được trích dẫn từ những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ nầy, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (4: 11).

1. Nhân cách hóa Lời Chúa:

“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật nầy. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).

2. Chức năng xét xử của Lời Chúa:

Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ độc nhất. Thánh Gioan cũng theo cách thức như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà giải phẩu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.

Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gởi đến các Ki-tô hữu đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.

TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)

Câu chuyện về một người giàu có nầy đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giêsu lợi dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.

Đức Giêsu vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết nầy có giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả đầy thành tâm thiện chí của người này và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng ta có thể nói đây là một câu chuyện về ơn gọi kết thúc không có hậu.

1. Sự sống đời đời:

“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện nầy; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giêsu với các môn đệ Ngài. Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu nầy: cuộc sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.

Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?

Người nầy ca ngợi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành” kèm theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ nầy làm chứng rằng Đức Giêsu nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người nầy tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.

Tại sao Đức Giêsu thoái thác đức tính “nhân lành” nầy cho mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức Giêsu có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa. Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giêsu.

Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của chàng thanh niên, Đức Giêsu sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.

2. Lời kêu gọi được gởi đến cho người giàu có này:

Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giêsu chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giêsu, thực thi Thập Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời nầy chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giêsu. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động nầy: “Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.

Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí nầy, Đức Giêsu đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giêsu đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giêsu cũng hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy.  Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc nầy, chúng ta mới biết được người ấy rất giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức Giêsu.

Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng nầy. Họ đã công kích những kẻ giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Ấy vậy, chúng ta gặp thấy ở nơi những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời đời”  là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.

Còn ở đây, Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện nầy không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giêsu, yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự kể cả mạng sống của mình.

Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành nầy được ghi lại trên con đường Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức Giêsu là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.

3. Lời mời gọi được gởi đến với mọi người:

 “Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giêsu ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức kinh ngạc, nên Đức Giêsu lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.

Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giêsu đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. “Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi nầy không chỉ vì người gắn bó với của cải thì đầy dẫy chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giêsu trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

Chúng ta đừng quên thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện nầy, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giêsu đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa yêu thương của Thiên Chúa.

4. Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu:

 Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có nầy: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giêsu trả lời bằng cách nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời nầy” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.

Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giêsu, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng trần thế. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần nầy mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui vẻ;  coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).

 

home Mục lục Lưu trữ