Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1359526

SỐNG CÙNG TRỜI VÀ ĐẤT MỚI

SỐNG CÙNG TRỜI VÀ ĐẤT MỚI

 

(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)

Mùa Vọng -mùa của những ngóng trông. Mùa của những đợi chờ. Trông ngóng đợi chờ mưa Đấng Cứu Tinh như cộng đoàn của Phêrô đã mỏi mòn ngày đêm trông ngóng đợi chờ.

Đợi chờ trông ngóng đã lâu, họ cảm thấy nôn nao xao xuyến. Và Phêrô chỉ còn biết ủi an họ so sánh ý niệm về thời gian khác nhau một trời một vực giữa Thiên Chúa và con người. Như có người kia hỏi Chúa: "Một triệu đồng với Chúa đáng giá bao nhiêu?" "Chỉ một xu thôi!" Chúa đáp. "Thế một triệu năm thì sao?" "Một giây!" "Thế Chúa hãy cho con một xu," người kia khẩn khoản. "Hãy đợi Ta một giây," Chúa mỉm cười...

Nhưng ngay cả Phêrô cũng không thể nào tính toán xác định ngày giờ Đấng Cứu Tinh đến. Điều quan trọng trong tâm trí Phêrô không phải chờ đợi ngóng trông nhưng là thực lòng sống sự chờ đợi ngóng trông kia -một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố. Sống một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố chẳng phải giản đơn sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng nhưng là sống cùng một "trời mới và đất mới". Và Phêrô cả quyết là có sự khác biệt giữa hai đời sống này như sự khác biệt ý niệm về thời gian giữa Thiên Chúa và con người.

Sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng là không làm điều xấu nhưng cũng rất ngại ngần không làm điều tốt. Nếu tội đuợc hiểu theo nghĩa không hẳn chỉ làm điều xấu mà không dám làm điều tốt thì đây quả thật là một đời sống rất cứng nhắc và máy móc. Một đời sống an phận thủ thừa. Một đời sống không kết trái đơm hoa.

Nhưng khi sống cùng "trời mới và đất mới", chúng ta sống tay áo luôn xắn cao. Đó không bao giờ là một đời sống hưởng thụ cầu an nhưng hằng hằng chấp nhận và đối diện với những thực tế rất phũ phàng của cuộc đời để rồi từ đó tìm một hướng đi lên, một đuờng lối mới.

Sống cùng "trời mới và đất mới" là thực thi công lý hoà bình. Là gieo rắc tin yêu hy vọng. Là luôn gióng tiếng chuông cao mạnh dạn cảnh tỉnh những thái độ sống bất chính bất lương. Là xung phong nơi đầu tên ngọn gió đối đầu với những chế độ phi nhân xem thuờng mạng sống con người.

Vì thế, câu hỏi mà mỗi chúng ta cần tự vấn mùa Vọng năm nay chẳng phải là đã sẵn sàng chưa cho ngày sau hết nhưng là đã chuẩn bị chưa để sống cùng "trời mới và đất mới!" Và Gioan Tẩy Giả gọi đó là một đời sống luôn biết thống hối ăn năn.

Một đời sống thống hối ăn năn không hẳn chỉ hoài niệm về quá khứ để rồi ân hận, tiếc nuối, xót thương nhưng là luôn hướng về tương lai để khiêm cung nhận thức rằng qua những thiếu sót lỗi lầm con nguời, tình yêu và lòng thứ tha vô bờ bến của Thiên Chúa lại luôn chan chứa đầy tràn.

Chiến tranh, thù hận là khi con nguời u mê chôn chặt tâm trí vào quá khứ để rồi không dám mở rộng vòng tay ôm lấy "trời mới và đất mới." Sống trọn vẹn tinh thần mùa Vọng -mùa của những đợi chờ- là biết nhìn nhau và nhìn về tuơng lai với đôi mắt rất tha thứ bao dung và tay nắm tay xây dựng thế giới mỗi ngày mỗi tuơi đẹp hơn. Cho chính chúng ta. Cho đàn con đàn cháu. Như câu mở đầu cuốn phim đầy cảm xúc "The Schindler's List": "Cứu đuợc một người là cứu đuợc toàn thế giới."

 

62.Dọn đường Chúa đến

Hãy dọn đường Chúa đến, đây là một hình ảnh khá quen thuộc của thế giới đông phương thời xưa. Thực vậy, đường sá lúc bấy giờ đâu có trơn tru phẳng lì như những xa lộ hiện đại. Đường thì gập ghềnh, có chỗ trũng có chỗ cao. Mỗi lần viên chức cao cấp đi qua, dân trong vùng lân cận đều được huy động đi dọn đường, bạt chỗ cao lấp đầy chỗ trũng, làm cho thẳng những khúc quanh co.

Lời kêu gọi dọn đường đặt chúng ta vào trong một bầu khí rộn ràng, nhộn nhịp của việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến. Thế nhưng Ngài đã không đến như một viên chức cao cấp. Ngài đã chẳng ngại đêm tối hay nhờm gớm mùi hôi hám của một chuồng bò. Ngài chấp nhận cái nóng bỏng chân của con đường ngang qua sa mạc. Ngài yêu thích những con đường gồ ghề dẫn tới biển để gặp các môn đệ, những con đường dẫn lên núi để ở giữa đám đông, rao giảng Tin mừng cho ho, những con đường ngang qua những cánh đồng để đi tìm những con chiên lạc.

Ngài đã đi con đường dẫn tới núi Sọ với cây thập giá trên vai với sức nặng của những lời chế diễu và chửi bới… Ngài đã chấp nhận một cuộc sống không có lấy một hòn đá gối đầu và một cái chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Một con người như thế đâu cần ai dọn đường…

Chúng ta có thể trang hoàng thánh đường một cách lộng lẫy, những hang đá đẹp đẽ, tập những bài hát du dương, nhưng tất cả là để cho chúng ta, những kẻ khó chấp nhận Tin mừng của sự nghèo túng, Tin mừng của những cái bình thường.

Riêng Chúa, Ngài vẫn muốn đi trên những con đường dẫn tới lòng người, dẫn tới trái tim. Và như thế, dọn đường Chúa đến có nghĩa là dọn lòng mình để đón nhận Chúa cùng với Tin mừng cứu độ của Ngài.

Chúng ta đừng vội nghĩ ngay đến việc xưng tội, mặc dù chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuốn đến cùng Gioan Tẩy giả thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa trong sông Giócđan. Xưng tội thì có xưng, nhưng họ lại không đón nhận Ngài khi Ngài đến. Và không chỉ có vậy, hơn thế nữa, họ còn hò hét đòi thủ tiêu Ngài. Họ xưng tội nhưng lại khóa chặt cửa lòng đối với Tin mừng Phúc âm. Họ đã không nhận ra Ngài là gì đối với sự cứu thoát của họ và họ đã ngại đi vào con đường cứu thoát mà Ngài đã vạch ra. Con đường có quá nhiều chông gai, bấp bênh và nguy hiểm. Con đường đòi buộc chúng ta phải cởi bỏ tất cả những gì mình đang chiếm hữu như một bảo đảm cho sự sống để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.

Dọn đường như thế có nghĩa là dọn lòng, là cởi bỏ những định kiến, những ích kỷ, những tính toán, lấy chính cái tôi làm tiêu chuẩn, những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng, nhưng lại chẳng có chút dấu vết gì của Tin mừng, là cởi bỏ những ràng buộc để chúng ta có thể tự do đón nhận giáo huấn của Chúa. Bởi vì, giáo huấn của Chúa chính là con đường dẫn chúng ta tới sự giải thoát.

 

63.Chúng ta đợi chờ

Truyện cổ Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết." Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước. Rồi một hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng ta không nhận ra Ngài.

Thời gian đã đến, Thiên Chúa thể hiện công trình cứu chuộc. Ngài đã không kiến tạo một thế giới khác, xứng đáng đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đã đến trong thế giới con người, những người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không sống đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đã quên đi việc chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đã bước theo những thần tượng khác.

Trong biến cố Giáng Sinh, Tình yêu Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa được khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.

Đối với hầu hết chúng ta, không ai là tầm thường khi là một phần tử của gia đình. Thông thường, sự quen thuộc gây nên mãn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết tìm mới lạ trong thường ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người vợ, người chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có những gia đình, những tình bạn mà tình yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi quá.

Chúng ta giống như các trẻ em sáng thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến trình làm phong phú sự liên hệ tình người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân. Chúng ta nghe có những gia đình mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ trước đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một trò cười, những thói quen, những phàn nàn. Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể tìm vui hứng. Thật đáng buồn.

Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp sâu vào tình trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người thì vô tận. Mỗi người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa, chúng ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng ta vẫn còn thám hiểm.

Một trong những mầu nhiệm cao cả của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta đang mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không đánh tráo. Ngài chờ đợi! Còn chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở đâu?" "Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có ý sử dụng sự sống mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô ích. Chúng ta phải có ý bước theo con đường của Ngài.

Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác, Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi. Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa thống hối; ngài kêu gọi một sự đáp ứng.

Trong cuốn tiểu thuyết The Shoes of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc này chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một người hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta và can đảm sống cuộc sống mới.

Chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ mình hiện diện trong cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu.

 

64.Hãy sám hối

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Trong Mùa vọng, các bài Tin Mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền hô” và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người. Chính vì thế phụng vụ Mùa vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.

Ngài là con duy nhất của ông Giacaria và bà Êlisabéth, sinh sống ở làng Ain Karim, gần thủ đô Giêrusalem. Có thể ngài đã đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qumran, sống rất khổ hạnh: Y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ. Còn của ăn là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu năm 27, dưới thời hoàng đế Tibêriô thì xuất hiện công khai giảng dậy dân chúng ở miền nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Giorđan.

Nội dung lời giảng dạy của ngài được thánh Matthêu diễn tả rõ ràng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Các sách Tin Mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp khi kể lại những lời kêu gọi và hoạt động “làm phép rửa sám hối” của ngài, chẳng hạn như Tin Mừng Maccô của Chúa nhật hôm nay.

Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa, nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.

Như vậy, Gioan đã đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại Gioan làm phép rửa bằng nước để giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tha tội cho người ta. Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu thế.

Đối với chúng ta hôm nay, nhắc đến Gioan Tiền hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đã giảng dạy, và cũng là nhắc nhở chúng ta: Hãy sám hối, hãy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đã biết sám hối là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của mình; là nhận ra những thiệt hại mình đã gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ tình trạng cũ để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Đây là điều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.

Về điều này, chúng ta hãy nhớ câu chuyện thánh Giêrônimô: Vào một đêm lễ Giáng Sinh kia. Giêrônimô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài: “Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”. Chúa nói: “Còn gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể”. Chúa lại hỏi: “Còn điều gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con”. Chúa nói: “Tốt lắm, con còn điều gì nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?”. Chúa bảo: “Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giêrônimô hốt hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?”. Chúa nói: “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi”.

Câu chuyện trên nhắc nhở: Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ. Lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói: Món quà Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ. Vì Thiên Chúa chẳng muốn gì hơn là được thỏa mãn lòng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ cho con người.

 

65.Gioan Tiền Hô

Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài.

So sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật kém cỏi, kém cỏi đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy. Kém cỏi đến nỗi không xứng đáng xách dép cho Ngài.

Chúng ta tưởng rằng Gioan hạ mình và khiêm tốn, nhưng không phải là như thế. Gioan không hạ mình và cũng chẳng khiêm tốn, nhưng ông chỉ nói lên một sự thật, một sự thật 100%.

So sánh với chúng ta, Gioan trổi vượt hơn nhiều, bởi vì ông được toàn thể dân chúng trọng kính, kéo đến nghe giảng và chịu phép sám hối. Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, ông thật kém xa và kém rất xa vì dù sao ông cũng chỉ là loài người, ông cũng chỉ là một tạo vật.

Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong thửa rừng bát ngát, chỉ là một hạt cát chốn sa mạc bao la.

Từ mẫu gương của Gioan chúng ta hãy đi vào lãnh vực bản thân và hãy thú nhận mình hèn kém, hèn kém mọi đàng.

Thực vậy, tự bản chất chúng ta chẳng là gì cả. So sánh với người này người kia, có thể chúng ta giàu sang hơn, chúng ta tài giỏi hơn, chúng ta thế lực hơn, chúng ta nhan sắc hơn. Tuy nhiên chúng ta có nên dựa vào mấy cái hơn đó mà vênh vang tự đắc hay không?

Về giàu sang ư?

Hẳn rằng ai cũng đã rõ, tiền bạc và của cải không phải là yếu tố chính yếu đem lại hạnh phúc. Hơn thế nữa, nó cũng không ở cùng chúng ta luôn mãi, có thể chỉ vì một biến động mà chúng ta sẽ trắng tay, như tục ngữ đã bảo:

- Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

Về tài giỏi ư?

Cái chúng ta biết chỉ là một, còn cái chúng ta không biết thì từng ngàn từng vạn. Jules Simon đã nói:

- Chỉ có kẻ ngu mới tin rằng mình biết mọi sự.

Người ta hỏi một nhà bác học nọ:

- Chính phủ trả lương cho ông, mà sao mỗi lần hỏi sự gì thì ông lại trả lời là không biết.

Nhà bác học nói:

- Chính phủ trả lươngcho tôi vì cái tôi biết. Song nếu phải trả lương cho tôi vì cái tôi không biết, thì cả kho bạc chính phủ cũng chẳng đủ để trả lương.

Về thế lực ư?

Có những người một thời hét ra lửa, thế mà, sau cùng lại bị tù tội. Cảnh thăng trầm, lên voi xuống chó, chẳng phải là chuyện bình thường trong sinh hoạt của con người đó sao?

Về nhan sắc ư?

Chỉ một cơn sốt trên bốn mươi độ, thì con người còn gì là nhan sắc.

Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, có một nhà hưu dưỡng dành cho những ngôi sao màn bạc, khi trẻ được ngưỡng mộ, nhưng bây giờ, họ vừa già lại vừa nghèo nên đã bị bỏ rơi và chìm vào quên lãng. Chính phủ cung cấp tiền nuôi dưỡng. Từ ngày mồng một tháng giêng đến hết ngày ba mươi tháng chạp, những bóng người lui tới thăm hỏi họ thật là ít ỏi.

Như trên đã xác quyết: Những cái chúng ta có thì chẳng là mấy. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là những ông chủ. Mặc dù so sánh, chúng ta có thể hơn thật, nhưng tự bản chất chúng ta chỉ là những người quản lý. Như vậy có chi đáng cho chúng ta khoe khoang, vênh vang và tự đắc.

Quản lý càng nhiều, thì càng bận rộn, càng phải mang lấy trách nhiệm, bởi vì không sớm thì muộn chủ sẽ hạch hỏi và đòi chúng ta tính sổ quản lý.

Copernic là một nhà thiên văn nổi tiếng. Sự nghiệp của ông trong lãnh vực này thật lớn lao. Thế nhưng, ông không bao giờ tự phụ, trái lại ông sống rất khiêm tốn. Càng thông minh, ông càng nhận thấy mình bé nhỏ. Khi gần qua đời, ông xin khắc trên mộ bia của ông những hàng chữ như sau:

- Lạy Chúa, con không dám xin ơn trở lại như thánh Phaolô, cũng chẳng dám yêu cầu được sự tha thứ như thánh Phêrô, con chỉ xin Chúa thương con như đã thương kẻ trộm lành mà thôi.

Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:

- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.

Biết Chúa để con yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để con ăn năn sám hối, sửa đổi những sai lỗi mà thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.

 

66.Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

Lắng nghe những ngôn sứ của thời đại chúng ta

Các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng nhấn mạnh đến các ngôn sứ là những người hướng dẫn chúng ta trên hành trình đến gần Thiên Chúa hơn.

Trong bài đọc thứ nhất từ sách ngôn sứ Isaia, chúng ta nghe lời tiên báo về dân tộc Giuđa, vì nhiều người đang sống xa quê hương trong cảnh lưu đày. Trong suốt thời kỳ này, Thiên Chúa hằng an ủi và đảm bảo với dân rằng họ sẽ có thể trở về quê hương với sự đồng hành và bảo vệ của Chúa. Giêrusalem được nhân cách hóa khi báo trước tin mừng ngày trở về quê hương sau thời kỳ lưu đày ở Babylon.

Tin mừng Marcô chú ý đến ngôn ngữ chuẩn bị mở đường bằng việc nối kết với Gioan Tẩy Giả và với vai trò của ông như là sứ giả báo trước sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Trong phần mở đầu bài Tin mừng của thánh Máccô, với những vang vọng từ ngôn sứ Isaia, mọi người từ khắp miền Giuđê và Giêrusalem kéo đến với vị ngôn sứ và đón nhận phép rửa.

Khác với Mátthêu và Luca bắt đầu Tin mừng bằng việc tường thuật thời thơ ấu Chúa Giêsu và Gioan mở đầu với nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu, Máccô bắt đầu với lời loan báo của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả nơi hoang địa. Phần mở đầu của Máccô tập trung vào sự khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu và lời tiên báo của Gioan định hình cách chúng ta hiểu biết về Chúa Giêsu.

Điều quan trọng là phần mở đầu của Máccô có nhiều chìa khóa để mở phần còn lại của Tin mừng chính yếu sẽ được đọc trong Năm phụng vụ B. Lời tuyên bố đầu tiên của Máccô nhằm kết nối Chúa Giêsu với Kinh thánh Do thái, soi sáng những đoạn trong Cựu ước. Máccô diễn giải và trình bày lại những lời tiên báo từ ngôn sứ Isaia và Malakhi về thời kỳ lưu đày và hậu lưu đày dưới ánh sáng của Đức Kitô. Tương tự như vậy, Máccô miêu tả Gioan Tẩy giả như vị ngôn sứ, mặc quần áo và ăn thức ăn thường được liên kết với ngôn sứ Êlia, một gợi ý quan trọng để thính giả thấy được nét tương đồng giữa hai nhân vật này.

Lời rao giảng đầu tiên của Gioan là: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các người, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các người trong Chúa Thánh Thần”. Gioan làm rõ vị thế và vai trò của mình so với Chúa Giêsu. Ông cho rằng mình là một ngôn sứ (trong các trích dẫn Kinh thánh và trang phục), chứ không phải là Đấng Mêsia. Khi chúng ta gặp được Chúa Giêsu ngay sau đó thì Gioan đã xác định Chúa Giêsu là Đấng mà ông giới thiệu. Hơn nữa, Gioan còn tự phân biệt mình với Chúa Giêsu bằng cách nói rằng mọi người sẽ đón nhận được Chúa Thánh Thần qua Chúa Giêsu.

Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta nên biết sống hòa hợp với những lời nói ngôn sứ ở giữa chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói trong thời của mình là quyền năng Thiên Chúa vượt quá thời lưu đày, quy tụ các dân tộc bị chia cắt và khởi đầu trở lại. Đến thời của Gioan Tẩy Giả, ông dựa vào truyền thống để làm sáng tỏ tầm quan trọng của Chúa Giêsu. Thay vì tiên báo tương lai, các ngôn sứ trong Kinh thánh rất quan tâm đến hiện tại, thường phê phán và giúp mọi người hiểu được thế giới để làm phong phú thêm mối tương quan của họ với Chúa và với nhau. Các ngôn sứ trong Kinh thánh cho thấy rằng Thiên Chúa phán qua lời nói và hành động của con người, và chúng ta nên tìm kiếm lời nói của vị ngôn sứ ở giữa chúng ta trong thời hiện đại này.

Trong Mùa Vọng và mọi lúc, chúng ta được mời gọi lắng nghe các vị ngôn sứ trong thời đại của chúng ta và được thôi thúc sống đời ngôn sứ, luôn lưu tâm đến các vấn đề cấp bách và làm việc không mệt mỏi để tìm hiểu và cải thiện thế giới.

----------------------------------

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/11/19/second-sunday-advent-gospel-reflection-catholic

 

67.Dọn lòng

Nhân vật Gioan Tẩy Giả thật đặc biệt, ông là vị ngôn sứ sống vừa cả thời cựu ước lẫn tân ước, sứ mạng được chỉ rõ trong lời sấm: "Có tiếng kêu trong hoang địa" và trong lời tuyên bố: "Gioan đến làm phép rửa trong hoang địa". Ông được sai đi "dọn đường Chúa, nắn thẳng lối Ngài đi" bằng cách "kêu gọi ăn năn để được tha tội".. Phép rửa của ông diễn tả sự ăn năn của người lãnh nhận và để ý đến việc tha tội. Kêu gọi ăn năn để đón chờ Chúa đúng là công tác của một sứ giả dọn đường, vì người Do Thái ngoan đạo đều tin rằng Đấng Messia chỉ đến khi dân người từ bỏ tội lỗi.

Ngày nay cũng thế, sự ăn năn thật tâm phải có trước rồi mới lĩnh nhận được những ơn phúc mà Chúa sẵn lòng ban cho kẻ tin nhận Ngài. Sự thành công của Gioan được tả rõ: "cả miền Giuđê và dân thủ đô đến với ông để lãnh phép rửa". Dĩ nhiên có nhiều người không đến, nhất là các vị có quyền chức đạo đời...Nhưng Marco cho thấy hưởng ứng của dân chúng với phong trào phục hưng mà Gioan phát động, và rồi sau này tấp nập đến với Chúa Giêsu tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn đến vậy?

Một trong những nguyên nhân vì ông là một người khiêm nhường, trong khi đang là một người rất nổi tiếng và có uy tín, nhưng chỉ dám ví mình như một người đầy tớ xách dép cho người đến sau. Và ông thực sự là người như thế, ông biết được vị trí và công việc của mình. Chính ông tự đánh gía là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi thời xưa rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ điệu gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang rao giảng. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng theo ông. Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng sự chú ý của dân vào một điều, một nhân vật cao cả, vượt trổi ông. Ông bảo dân chúng rằng, qua phép rửa ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước thanh tẩy thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Có thể dùng một hình ảnh minh họa dễ hiểu: Khi gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài, và nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: "Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông". Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng dài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc được với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.

Vậy, đã có người kêu gọi và nhất là mùa vọng đã đến hơn một tuần rồi chúng ta đã chuẩn bị lòng đón Chúa như thế nào? Nhất là con đường trong tâm hồn chúng ta với nhiều chông gai gồ ghề cần phải san cho bằng để chuẩn bị đón Chúa trong mùa Giáng sinh này.

Lạy Chúa, Mỗi năm đến mùa vọng là thời gian để chúng con dọn lòng đón Chúa đến. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho con biết nhận ra những gồ ghề trong tâm hồn để san cho bằng mà rước Chúa vào lòng. Amen.

 

68.Dọn đường đón Chúa Cứu Thế

Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài luôn sáng tạo và tìm đủ mọi cách thế thể hiện tình yêu thương đối với nhân loại chúng ta. Chúa nhật hôm nay, Phúc âm trình bày cho chúng ta việc Thiên Chúa sai Gioan Tiền Hô đến giúp con người nhận ra, sửa đổi thái độ sống và chỉ dẫn người ta can đảm bước đi trên con đường của Ngài để đón nhận tình thương Thiên Chúa.

Dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Dọn đường nghĩa là sửa lối đi, là dẹp bỏ những gì không thích hợp, là gia tăng hy sinh, là phá đỗ những thứ vướng bận, những vướng mắt, những điều không thích hợp cho cuộc sống mình...Những vướng bận này cản trở ta đến với Chúa. Mang tâm tình đón Đấng Cứu Thế chúng ta hãy dọn lòng của mình cho bớt bất xứng.

Người Do thái hưởng ứng lời kêu gọi "dọn đường" của Gioan Tiên Hô bằng việc chịu phép rửa trong dòng sông Giorđan. Họ từ bỏ thói xấu, từ bỏ nếp sống cũ để sống cho lời mời gọi mới, sống bác ái yêu thương. Hơn nữa, Gioan Tiền hô còn mời gọi mọi người dọn đường bằng thái độ tin yêu và đón nhận Chúa Giêsu: "tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, con Ngài, Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần".

Dọn đường còn là hối cải, là trở về với Thiên Chúa tình thương. Ý thức Ngài đang yêu thương và chờ chúng ta hối cải, trở về để sống tâm tình con ngoan, đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Dọn đường hay đúng hơn là dọn lòng mình thoát khỏi ách thống trị tội lỗi để xứng đáng cho Chúa đi vào tâm hồn chúng ta, Chúa đi qua cuộc đời chúng ta. Chúng ta hưởng nhờ tình thương tha thứ và sự cứu độ của Thiên Chúa.

Dọn đường còn thể hiện ở việc lời nói đi đôi với hành động. Gioan rao giảng không chỉ bằng lời mà còn mà chính đời sống dọn đường của mình. Lối sống của ông nên một dấu hiệu, một gương mẫu để thức tỉnh dân chúng trước các biến cố đang xảy đến và còn thể hiện tâm tình đối với Thiên Chúa yêu thương nhiệm mầu. Cách ăn mặc nói lên thái độ sám hối. Ông đã thoát khỏi bản thân, thoát ra khỏi vòng ràng buộc đầy phiền toái của xã hội Do thái và những bận tâm quá đáng của họ về đời sống vật chất. Gioan muốn người ta quy hướng về Chúa Kitô, sống và làm chứng cho Chúa Kitô. Đời sống của ông là một bằng chứng xác thực về tình yêu, lòng trung thành và chờ đợi Chúa kitô.

Cuộc sống người Kitô cũng là một mùa vọng chờ đợi Chúa trở lại. Trong đó, mỗi người là một Gioan Tiền Hô, và mọi người cũng có sứ mạng tiền hô. Lòng thống hối thực sự phải phát xuất từ tâm tình bên trong của con người, tinh thần và thái độ cụ thể như sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng, lấp đầy lòng bác ái yêu thương. Thống hối còn là một sự đổi mới, đổi mới toàn diện, đổi mới liên tục. Mùa vọng này, Người kitô hữu được kêu gọi đáp lại việc canh tân đời sống bằng chính việc từ bỏ con người cũ, lối sống cũ,...để sống con người mới. Hãy quan tâm đến người khác, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân, chia sẽ tình thương và của cải vật chất cho mọi người....

Gioan Tiền hô đã loan báo: "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế". Chúng ta hãy hưởng ứng thực hiện để làm cho nhân loại đi trong tình yêu Chúa Kitô, cho xã hội hưởng tình yêu cứu độ và chính bản thân chúng ta tìm được nguồn bình an, chân lý và ơn cứu độ của Thiên Chúa được phát triển dồi dào.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy qua Gioan Tiền hô, can đảm dọn lòng mình và can đảm sống cho Chúa vì tình yêu thương. Amen.

 

69.Dọn đường Chúa đến

Trong thế giới văn minh, sự phát triển của các quốc gia có liên quan mật thiết đến sự phát triển của các phương tiện giao thông. Thực vậy, giao thông càng mau lẹ, thuận tiện và rẻ tiền bao nhiêu, thì sự phát triển càng nhanh chóng bấy nhiêu. Chính vì thế, mặc dù không thếiu những phương tiện đi lại bảo đảm và an toàn giữa hai nước Anh và Pháp, thế mà người ta vẫn tung ra không biết bao nhiêu tiền của và công sức để làm một con đường hầm xuyên qua eo biển Manche. Tại Việt Nam cũng vậy. Với ý muốn làm cho vùng duyên hải Saigon được phát triển, mặc dầu ngân sách không mấy dồi dào, nhưng người ta vẫn cố gắng đầu tư vào con đường Nhà Bè-Duyên Hải, một con đường mà các chuyên viên cho rằng rất khó xây dựng.

Tuy nhiên, qua báo chí cũng như qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy có những người không ý thức về việc bảo vệ con đường, thậm chí họ còn có những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như chạy xe quá tải trọng làm hư nền đường, làm sụp cầu cống hay đào đương để lắp đặt hệ thống ống nước, cũng như dây cáp điện thoại, nhưng rồi không lấp lại theo đúng kỹ thuật, khiến cho con đường trở thành lồi lõm với những ổ gà ổ vịt, thậm chí còn có cả những ổ voi ổ trâu, rất khó đi lại, thậm chí còn gây nên những tai nạn và tình trạng tắc nghẽn giao thông.

Hình ảnh này làm cho chúng ta liên tưởng tới một con đường khác, mặc dù không nhìn thấy được, nhưng lại được Kinh Thánh nói tới rất nhiều, đó là con đường Thiên Chúa đến với con người và con người đến với Thiên Chúa. Thực vậy, chính Thiên Chúa đã mở ra con đường đến với con người bằng cách tạo dựng nên chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Và hơn thế nữa, Ngài lại còn muốn gắn bó mật thiết với chúng ta. Sách Sáng Thế Ký đã viết: Khi gió chiều nhẹ thổi, Thiên Chúa thường đi dạo trong vườn Địa đàng và nói chuyện với AdongEva.

Như thế, Thiên Chúa không xa cách con người, nhưng đã đến với con người ngay tại chính nơi mà họ đang sống. Cũng vậy, trong suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã đến với dân Do Thái. Ngài đã cắm lều, có nghĩa là Ngài đã cư ngụ giữa họ bằng nhiều cách. Và với cặp mắt đức tin, họ đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Ngài luôn đi trước họ, ban ngày bằng áng mây để chỉ lối cho họ, ban đêm bằng cột lửa để soi sáng cho họ. Cũng như họ đã nhìn thấy vinh quang của Ngài bao phủ nhà tạm, nơi đặt hòm bia giao ước. Nhất là trong đêm giáng sinh, Ngài đã đến với toàn thể nhân loại. Ngài đã trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Tuy nhiên, có một sự việc đáng buồn đã xảy ra, đó là con người đã đặt những rào cản, những chướng ngại vật để ngăn chặn bước đường Chúa đến. Hay nói một cách khác, con người đã từ khước sự viếng thăm đầy yêu thương của Ngài, như lời thánh Gioan đã cảnh báo: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp đón Ngài.

Thuở ban đầu, Adong Eva đã giơ tay ngắt trái cấm và lẩn tránh sự hiện diện của Ngài. Tiếp đến, dân Do Thái đã nhiều lần quay lưng chống lại Ngài bằng cách quì gối thờ lại những thần tượng nhảm nhí. Ngay chính chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, nhưng Ngài còn đến với chúng ta qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới luật, quan Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những người nghèo khổ, qua những biến cố và qua những dấu chỉ của thời đại.

Thế nhưng, bản thân chúng ta đã tạo nên những rào cản, những chướng ngại vật dể ngăn cản không cho Ngài đến. Những rào cản ấy, những chướng ngại vật ấy chính là những tội lỗi, những thói hư tật xấu của mỗi người. Vì thế, trong suốt mùa vọng sứ điệp của Gioan tiền hô phải luôn vang vọng bên tai chúng ta: Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.

Ước vọng của Thiên Chúa là muốn được sống với con người. Chính vì ước vọng này, Ngài đã xuống thế và sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá máng cỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã tiếp nhận Ngài hay là đã xua đuổi Ngài như dân thành Bêlem ngày xưa?

 

70.Dọn đường

Không ai thích đợi chờ. Đợi chờ là một đau khổ. Yêu nhau mà không được gần nhau hay cưới nhau nhưng phải chờ đợi vô hạn định thì lại đau khổ biết chừng nào: “Chờ anh em ráng sức chờ. Chờ hồi mười bẩy bây giờ ba mươi”.

Trong sách hướng dẫn du lịch “Non Nước Việt Nam” có ghi lại sự tích Núi Tô Thị như sau: “Chếch về phía tây bắc núi Tam Thanh là núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu đã đi vào truyền thuyết của dân tộc. Trên đỉnh núi có tảng đá tự nhiên trông xa giống người phụ nữ bồng con nhìn về phương xa. Từ xưa, tảng đá hình người này được gắn liền với truyện cổ tích nàng Tô Thị bồng con đứng đợi chồng đi đánh giặc từ phương Bắc trở về. Chờ mãi, hai mẹ con hóa thành đá. Vì thế dân gian mới đặt tên cho tảng đá là nàng Tô Thị”.

Do tác động của thiên nhiên và con người, di tích này đã bị phá hủy. Chính quyền tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại nguyên bản để giữ gìn một di tích đã đi sâu vào tình cảm và văn chương bình dân của người Việt Nam. Mấy dòng thơ sau còn lưu truyền cho hậu thế:

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

Ai lên xứ Lạng cùng anh,

Bõ công cha mẹ sinh thành ra em”.

Câu chuyện thật bi đát! Một bi kịch của sự chờ đợi. Chúng ta là Kitô hữu đang chờ đợi Chúa trở lại lần thứ hai. Chúng ta sẽ chờ cho đến khi nào? Chúng ta cũng sẽ biến thành tượng đá hay sao? Sự ra đi của Chúa Kitô có giống như sự ra đi vĩnh viễn của người chồng trong sự tích núi Tô Thị không?

Những người Kitô hữu thời sơ khởi cũng đã đặt ra những vấn nạn này, một cách rất hăng say và nhiệt tình, họ tin rằng ngày Đức Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang đưa mọi người vào Vương quốc của Thiên Chúa sắp đến gần rồi! Niềm tin này đã trở thành một nguồn an ủi lớn lao và hy vọng cho các tín hữu, bởi vì họ đang bị bắt bớ. Nhiều người đã bị chính quyền tra tấn, tù đày và bị giết chết vì đức tin của họ. Nhưng cũng có nhiều người thất vọng, nản lòng và bỏ cuộc!

“Sao Chúa mãi im” là tên của một cuốn tiểu thuyết do Nguyễn văn Thực dịch thuật từ nguyên tác Nhật ngữ của Endo Shusaku. Tác giả Endo Shusaku đã đoạt nhiều giải văn chương lớn của Nhật và được đề cử tranh giải Nobel năm 1994. Tác giả đã viết cuốn tiểu thuyết này dựa trên những dữ kiện lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công giáo vào thế kỷ 16 và 17 trên đất Nhật.

Truyện thuật lại hai sự quyết tâm: sự quyết tâm của các giáo sĩ truyền giáo xâm nhập đất Nhật và sự quyết tâm ngăn chặn của nhà cầm quyền Nhật. “Sao Chúa mãi im” là câu than thở của các giáo sĩ trong cơn bách hại với bao nỗi khốn khó cô đơn. Vào giữa thế kỷ 16, lúc đầu đạo Công giáo gặp rất nhiều thuận lợi vì chính quyền Nhật muốn o bế các thương thuyền Bồ Đào Nha, họ thân thiện với các vị thừa sai để có lợi. Theo sử liệu, vào đầu thế kỷ 17, con số giáo dân đã có lúc lên tới 250.000 người. Nhưng sau đó chính quyền đã cấm đạo vì nhiều lý do. Cuộc bách hại vô cùng tàn khốc và hiểm độc đã khiến một số các giáo sĩ thừa sai bỏ đạo, trong đó có linh mục giáo sư thần học Ferreira đã từng truyền giáo ở Nhật 20 năm với chức vụ Giám tỉnh dòng tên. Ông đã bỏ đạo, lấy vợ Nhật, có tên Nhật, chết tại Nhật. Một sự kiện mà Giáo Hội Lamã không tưởng tượng nổi, vì thế mới có câu chuyện này.

Vào năm 1638 hai linh mục dòng tên tìm cách rửa nhục cho cha Ferreira, giáo sư thần học của họ ngày xưa ở Rôma. Họ đã vạch ra kế hoạch truyền giáo tại Nhật giữa thời kỳ bị bách hại dữ dội nhất. Mặc dù cha bề trên giám tỉnh nghiêm khắc khuyến cáo họ không nên vào Nhật trong lúc này, nhưng cuối cùng theo như ý họ muốn, hai giáo sĩ đã cương quyết vào được đất Nhật, và đã được các bổn đạo che dấu để hoạt động. Tuy nhiên, với sự kiểm soát chặt chẽ, tất cả các giáo dân cùng linh mục đều đã bị bắt. Một vị phóng xuống biển chết theo giáo dân vì bị nhận nước. Vị còn lại, sau bao nhiêu ngày tù tội, phấn đấu với bản thân và các mưu mô của chính quyền dẫn dụ việc bỏ đạo, cuối cùng đã chịu thua, chấp nhận đạp lên ảnh Chúa. Và những điều đã xảy ra ngày xưa với vị thầy cũng đã được lập lại cho ông: lấy vợ Nhật, đổi tên Nhật, có pháp danh của đạo Phật, và khi chết lại được hỏa táng ở chùa.

Chính quyền Nhật đã nghĩ ra một cách thuyết phục rất tâm lý và tinh vi. Họ bắt các nhà truyền giáo phải chứng kiến giáo dân chịu cực hình và bị hành quyết với lý lẽ rất đơn giản: vì quí vị vào đất Nhật truyền đạo nên mới có giáo dân, và giáo dân phải bị trừng trị theo luật lệ. Vì bác ái mà quí vị đã truyền đạo, xin quí vị cũng hãy vì tình thương mà cứu họ. Chỉ cần quí vị bỏ đạo, các giáo dân sẽ được tự do!

Trong cuốn tiểu thuyết “Sao Chúa mãi im”, và trong lịch sử Giáo Hội khi bị cấm cách, bắt bớ và thử thách, có những vị tông đồ, giáo sĩ và giáo dân nghe được tiếng Chúa, trung thành với đức tin, chấp nhận tử đạo. Trái lại, đối với vị linh mục truyền giáo trong cuốn tiểu thuyết, và rất nhiều tín hữu khác thì “Sao Chúa mãi im”! Thiên Chúa đến với chúng ta bằng cách nào? Khi nào Ngài lại đến? Làm thế nào để sống trong ánh sáng của niềm tin giữa những bắt bớ, thử thách và đau khổ? Chúng ta nên làm gì trong khi chờ đợi Chúa Giêsu trở lại? Tại sao Chúa trì hoãn”? Những câu trả lời đã được các thánh Tông Đồ trả lời tóm tắt như sau:

1. Sự trì hoãn ngày Chúa Giêsu trở lại là do lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài trì hoãn là để cho những người chưa ăn năn trở lại có thêm thời gian và cơ hội thay đổi đời sống và trở về với Chúa trước khi quá trễ, để Vương Quốc yêu thương của Thiên Chúa có cơ hội phát triển và lan tỏa rộng lớn hơn.

2. Vì trì hoãn nên ngày ấy sẽ đến rất bất ngờ, như “kẻ trộm đến ban đêm”. Phải luôn sẵn sàng, tỉnh thức và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

3. Lời hứa của Chúa Giêsu là chắc chắn. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Ngày ấy đang trên đường đến. Chúng ta không nên ngã lòng vì nó sẽ xảy ra theo như thời biểu của Thiên Chúa đã định, không theo ý muốn của con người.

4. Trong khi chờ đợi, ta phải sống trong sự bình an và ngay chính. Kitô giáo không phải chỉ hướng về sự hy vọng ở tương lai mà quên hiện tại lúc này. Ngay trong hiện tại lúc này Chúa đang đến với tâm hồn ta bằng nhiều cách.

 

71.Dọn đường

Trong truyền thống Zen của Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông giáo sư đại học đến gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy: Thưa thầy, xin dạy con phải làm gì để có một đời sống hạnh phúc. Con đã học thánh kinh, con đã học hỏi với những bậc đại sư, nhưng con chưa tìm thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ dạy cho con biết cách nào đây?

Nghe xong câu hỏi, vị thiền sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách, rồi tràn cả ra ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm mãi, tới nỗi nước trà chảy xuống bàn, rồi từ bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nhìn thấy thế, không thể kềm hãm mình được nữa, bèn nói lớn: “Ngưng đi! Ngưng đi! Đầy quá rồi! Không còn chỗ… tràn cả ra nhà”.

“Giống như cái tách trà này!”Vị thiền sư nói. Ông đã đổ đầy những suy nghĩ và ý kiến của ông vào rồi. Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông phải làm trống rỗng cái tách của ông trước đã.

Trong Thánh Kinh, sa mạc là nơi để gặp Thiên Chúa. Đi vào trong sa mạc là phải bỏ lại tất cả mọi thứ mà ta thường tùy thuộc trong đời: nghề nghiệp, liên hệ, tiện nghi, ý muốn và ngay cả những cơ chế tôn giáo. Thiên Chúa chẳng làm gì được cho ta nếu ta không hoàn toàn tùy thuộc và tin tưởng vào Ngài. Sa mạc biểu tượng cho sự từ bỏ bản thân, ý riêng, làm trống vắng con tim mình để Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị. Đó là lý do tại sao khi xưa Gioan tẩy giả xuất hiện trong hoang địa và rao giảng phép rửa sám hối để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến: “Hãy dọn đường Chúa đến, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.

Phúc âm hôm nay nói về con người và những việc làm của Gioan tẩy giả chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Theo William Barclay, một trong những lý do làm cho công việc mục vụ của Gioan có hiệu quả mạnh mẽ, dân chúng lũ lượt kéo đến nghe giảng và xin ơn tha tội qua phép rửa, là vì Gioan rất khiêm tốn. Gioan đã sống hy sinh từ bỏ chính bản thân mình như một người nô lệ của Thiên Chúa qua đời sống trong hoang địa, trang phục đơn sơ, ăn uống kiêng cữ giản tiện: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.

“Sự phán quyết của Gioan cho chính mình là Gioan không xứng đáng làm bổn phận của một người nô lệ. Những chiếc dép da thuộc đơn sơ được cột vào bàn chân bằng những sợi dây. Mặt đường gồ ghề. Vào mùa khô bụi bặm, sang mùa mưa dính đầy bùn. Tháo những đôi dép ra khỏi chân là công việc và bổn phận của người đầy tớ. Gioan đã không đòi hỏi điều gì cho chính mình nhưng mọi sự dành cho Đức Kitô. Rõ ràng là sự tự quên mình, sự nhượng bộ, sự tự bôi xóa chính mình, sự thua thiệt hoàn toàn trong lời ngài rao giảng đã thúc đẩy dân chúng phải lắng nghe”.

Chúa Giêsu Kitô cũng đã chết trên thập giá theo ý Chúa Cha. Ngài hoàn toàn không làm sự gì theo ý riêng mình. Qua thập giá, Ngài tự hư vô hóa bản thân mình để thánh ý của Chúa Cha được thể hiện. Đó là con đường tu đức Ngài dạy chúng ta phải theo.

Chúng ta không có quyền bắt Chúa phải trở lại theo thời khắc như ý ta. Khi nào Chúa đến đó là quyền của Chúa. Ngay chính Chúa Giêsu cũng không biết ngày ấy: “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”. Nhưng điều kiện Chúa đòi chúng ta là phải chuẩn bị sẵn sàng. Một trái tim luôn sẵn sàng là trái tim thực thi thánh ý của Thiên Chúa.

Nếu ta không dọn chỗ trống cho Ngài, làm sao Ngài đến được? Thánh Gioan tẩy giả đã đến để dọn đường cho Thiên Chúa, không phải bằng cách xây dựng một cơ chế tôn giáo, một lề lối làm việc hay một phương hướng hoạt động truyền giáo theo ý ngài, nhưng bằng việc sửa soạn trái tim và tâm hồn của tất cả những ai muốn đón nhận Thiên Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ