Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 78
Tổng truy cập: 1364177
SỐNG ĐÒI PHẢI LỰA CHỌN
SỐNG ĐÒI PHẢI LỰA CHỌN
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Chúa gọi Giêrêmia, sai ông loan báo cho dân, nhân danh Chúa, những tai họa hình phạt sẽ xảy đến như đền thờ bị phá hủy, vua quan dân chúng phải đi lưu đày. Vì thế, Giêrêmia bị người ta ghét và muốn hãm hại; họ đã xin vua giết tiên tri, và đẩy Giêrêmia xuống giếng cạn để ông chết đói ở đó. Cũng may cho tiên tri, một người của Chúa đã đến xin vua để cứu Giêrêmia, và tiên tri đã được kéo lên khỏi giếng.
Tại sao Giêrêmia lại nói những lời dân không thích, để rồi người ta ném ông xuống giếng cạn? Sách tiên tri Giêrêmia cho thấy cuộc chiến nội tâm của ông. Đã có thời gian ông không nói cho dân những gì Thiên Chúa nói với ông, để hy vọng ông được sống an lành không bị người ta ghét bỏ hãm hại nữa, nhưng ông vẫn không được hạnh phúc: ruột gan ông bồi hồi. Ông đã trở lại với Thiên Chúa để có được một lương tâm an bình.
Sống, là phải chọn lựa. Chọn sống theo những gì Thiên Chúa muốn, là chọn điều tốt nhất cho mình, sẽ làm mình bình an hạnh phúc. Chọn làm điều ác điều dữ điều bất hảo, là mặc nhiên chọn không bình an và bất hạnh. Hạnh phúc của một người sống lương thiện không chỉ có ở đời sau, nhưng hiện hữu ngay tại đời này. Có bao người giầu cảm thấy không hạnh phúc, có bao người có danh vọng địa vị nhưng vẫn thấy bất hạnh. Hạnh phúc của con người tùy thuộc rất nhiều yếu tố. Một người sống đời gia đình, để hạnh phúc, cần có sự hòa hợp giữa vợ chồng con cái. Sự không thành đạt của một người trong gia đình, sự hư hỏng của một người con, cũng làm cho những bậc làm cha làm mẹ, cho dù là cha mẹ giầu sang và có địa vị, cảm thấy bất hạnh. Sự thành đạt, tiền của, công danh sự nghiệp, vợ chồng con cái, cha mẹ anh chị em, đều là những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi người.
Giêrêmia đã chọn. Lúc đầu tiên tri đã làm theo tiếng Thiên Chúa yêu cầu; rồi vì thấy bị người ta ghét bỏ nên ông lại bỏ Thiên Chúa không làm theo lời Ngài chỉ dạy, nên ông thấy bất an; và cuối cùng ông đã trở lại với Thiên Chúa. Ông E-vét Me-léc đã chọn làm điều đúng điều phải và không sợ trái ý những người có quyền thế, khi tâu vua để kéo tiên tri Giêrêmia lên khỏi giếng cạn. Mỗi người trong cuộc sống đều phải chọn lựa làm điều tốt hay điều xấu, điều nên làm hoặc không được phép làm. Chính chọn lựa sống, làm họ được bình an hạnh phúc hay không.
Sự bình an sâu thẳm và sự “không có nguy hại về thể lý” đôi khi không đi chung với nhau. Chọn đồng lõa với điều ác, có thể không có gì xấu về thể lý xảy tới cho mình, nhưng người đó vẫn không có sự bình an thật, không có hạnh phúc thẳm sâu. Chọn điều đúng điều phải làm, có thể về thể lý gặp nguy hiểm, nhưng thâm sâu người đó vẫn cảm thấy bình an và hạnh phúc thật sự; chẳng hạn các anh hùng tử đạo. Các vị anh hùng tử đạo tuy dù qua chọn lựa của mình có thể bị hành hạ và bị giết, nhưng thâm sâu các ngài vẫn cảm thấy bình an, và biết rằng chọn lựa của mình có thể ảnh hưởng tích cực và có tính giáo dục cho con cái mình.
“Thầy đã đến ném lửa vào trần gian, và thầy mong ước lửa ấy bừng cháy lên.” Đức Yêsu mong ước người ta yêu mến sự thiện hảo, và ước chi con người luôn thực hiện điều lành điều tốt để danh Cha cả sáng, và mỗi người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu đến, không phải để đem lại hòa bình theo nghĩa khi tin vào Đức Yêsu, thì không có gì xấu về thể lý xảy đến; Ngài đến, làm người ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, giữa điều không được phép làm và điều phải làm, giữa Đức Yêsu và sự dữ. Bình an mà Đức Yêsu ban tặng, là bình an sâu thẳm trong tâm hồn chứ không phải là “không có điều gì xảy đến.”
Đức Yêsu đến, để người ta phải chọn lựa, chọn Ngài hoặc chọn điều xấu. Đức Yêsu là một giá trị mà người ta phải chọn lựa trên hết, trên cả gia đình anh em họ hàng. Ngày xưa, Đức Maria khi thưa tiếng “xin vâng,” là đã chọn Thiên Chúa trên thánh Giuse, trên gia đình cha mẹ, trên tình yêu riêng; và nhờ vậy, mẹ đã nên người nữ tuyệt vời. Đức Yêsu đã chấp nhận thân phận con người, và đã chọn sống kiếp người đến hơi thở cuối cùng bất chấp tất cả những đe dọa và khổ hình. Với cái chết, người ta tưởng Ngài đã bị hủy diệt, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Chọn lựa của Ngài, sống theo Ý Thiên Chúa, sống thân phận con người, là chọn lựa mang lại cho Ngài tất cả, kể cả con người sa đọa nay được cứu độ và được sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, giá trị con người hệ tại đâu?
2. Đức Yêsu có hội đủ những giá trị mà bạn xác định trên không? Xin liệt kê những giá trị này?
41.Không hòa bình nhưng chia rẽ
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Những lời Chúa Giêsu nói mà thánh Luca ghi lại hôm nay không dễ hiểu và các nhà chú giải cũng không đồng ý với nhau vì có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Chúng ta thử tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay. Có lẽ các thánh sử đã tập trung lại trong một đoạn những lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong đoạn này chúng ta thấy Chúa nói đến ba điều: Lửa, phép rửa Ngài phải chịu, và sự chia rẽ.
Trong Cựu Ước, hình bóng của lửa được sử dụng nhiều lần với những tình huống khác nhau.
Thời Môsê, lửa bao quanh đỉnh núi Khoreb, nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Israen. Lửa hỏa hào đó tượng trưng cho uy lực tuyệt đối của Chúa, làm cho dân khiếp sợ. Lửa đó chứng tỏ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối không ai có thể đến gần đến nỗi: “Không ai thấy Chúa mà còn sống”. Vì thế vinh quang Thiên Chúa tách Ngài ra khỏi đám dân cùng khổ.
Trong sách Xuất hành, Chúa đã hiện ra với Môsê trong một ngọn lửa hỏa hào, nơi bụi gai. Khi Môsê bước tới để xem sự gì đã xảy ra, thì từ ngọn lửa có tiếng phán: “Môsê, Môsê!” Ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Người lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, của Abraham, của Ixaac, của Giacob”. Môsê che mặt lại vì sợ nhìn thấy Thiên Chúa. Ngọn lửa hỏa hào là một hàng rào ngăn cách một Thiên Chúa cao cả tuyệt đối và Môsê, một con người tầm thường, nhỏ bé. Chúa Giêsu không tạo ra một hàng rào lửa như thế, vì chính Ngài là lửa thánh thiện được ban cho chúng ta. Ngài tỏ ra là một người “hiền lành và khiêm nhượng”, đến gần với mọi người, không tách biệt, nhất là đối với người tội lỗi. Ngài chứng tỏ Ngài là “Emmanuen”, nghĩa là Thiên- Chúa-ở-với-loài-người.
Ngài đã nhập thể, mang lấy kiếp người của chúng ta với tất cả sự yếu hèn và hạn chế của nó. Ngài hoàn toàn là người thật, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu có mang lửa đó xuống trần gian để ngăn cách con người với mình không? Chắc hẳn là không. Ngài đến để mang hồng ân tha thứ, để yêu thương và cho con người biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài đến để mời gọi con người đến với Ngài để tình yêu của Ngài giúp họ sống với Ngài trong một tình yêu sâu đậm, vững bền.
Vậy Ngài mang thứ lửa nào đến và Ngài lại mong cho nó cháy lên?
Ngài đến gọi Matthêu, người thu thuế, gọi Giakêu, trưởng ban thuế vụ, Ngài mời gọi hết mọi người: “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho.” Ngài đến mang ngọn lửa đang nung nấu tâm hồn Ngài, và Ngài khao khát cho nó bừng cháy lên, ngọn lửa đó là tình yêu. Ngọn lửa đó không là ngọn lửa đã thiêu đốt thành Xôđôma va Gômôra, không phải là ngọn lửa mà tiên tri Êlia đã gọi đến thiêu hủy những người vua sai đến bắt ông.(xem:V1,10-14)
Chúa Giêsu đã mang lửa đến trần gian và mong nó bừng cháy lên trong lòng Giáo Hội, trong lòng con cái của Ngài, trong lòng những người đang mong cho Danh Cha cả sáng, nhưng nó chưa bừng cháy lên như Chúa mong ước.
Hãy mồi ngọn lửa của Ngài và mang nó vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta, cho thế giới nầy bừng cháy lên. Thế giới chúng ta đang sống đang chìm trong đêm tối của tội ác và bao nhiêu con người đang tuyệt vọng chờ đợi một ánh sáng nào cho cuộc sống của họ mang một ý nghĩa.
Thế giới của chúng ta đang đổ nát tan tành như ông Gabriel Marcel, một triết gia và là một kịch sĩ đã nói: “Thế giới nầy là một thế giới đổ nát. Người ta sống như đốt tàn một điếu thuốc”. Không còn gì có ý nghĩa cả, chỉ có lợi nhuận, vì ngọn lửa Chúa mang đến đã tắt dần, vì chính chúng ta, những người tin Chúa, đã không đủ lòng mến để nuôi ngọn lửa tình yêu ấy. Hận thù và tội ác đã như một làn sóng tràn ngập và đã dập tắt ngọn lửa tình yêu ấy.
Chúng ta không thể để cho ngọn lửa ấy tàn lụn. Ngọn lửa ấy chính là Thánh Thần. Đấng đã mang Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài tiếp tục công trình của Ngài nơi Chúa Giêsu. Ngài vẫn luôn cháy bừng trong Chúa Giêsu. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, là ngày đăng quang của Thánh Thần, Ngài hiển hiện như một ngọn lửa đốt cháy tâm hồn các Tông đồ, khiến các ông trở thành những ngọn đuốc, thắp sáng khắp nơi. Thánh Thần đó vẫn tiếp tục cháy trong Giáo Hội. Ngài đang cần những bó đuốc là chúng ta, để ngọn lửa tình yêu vẫn cháy và bừng lên. Xin Thánh Thần nung đốt chúng ta, dập tắt những đam mê trần tục đang giam hãm chúng ta. Hãy sống trong Thánh Thần, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng.
Thánh Thần nung nấu tâm hồn Chúa Giêsu và Ngài hướng về một phép rửa Ngài sắp chịu. Lời Ngài thật tha thiết: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất”.
Nói đến phép rửa, chúng ta liên tưởng đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan. Ông đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu ngày nào rồi sao lại còn một phép rửa nào nữa chưa được hoàn tất?
Những lời nầy vẫn còn giữ bí mật của nó, và các nhà thần học cũng chưa đồng ý với nhau về lời nầy. Một số đông đồng ý rằng đây là một cách loan báo cuộc tử nạn của Ngài. Chịu phép rửa là dìm mình trong nước để được thanh tẩy. Ngài sẽ dìm mình trong đại dương đau khổ nhục hình để tẩy xóa tội lỗi thế gian. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, Ngài là người Tôi Tớ của Thiên Chúa phải chịu đau khổ để cứu chuộc con người như tiên tri Isaia đã nói.
Lúc Ngài nói đến phép rửa phải chịu, chính là lúc Ngài hướng về Giêrusalem để thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài.
Chúng ta dám uống chén của Ngài như hai môn đệ, con ông Giêbêđê đã hứa không? Chúng ta có cùng sống chết với Ngài như thánh Phaolô đã nói, hay chúng ta để Ngài cô đơn một mình, chìm ngập trong roi đòn hổ nhục?
“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài;
Nếu Ta kiên tâm chịu đựng, Ta sẽ cùng hiển trị với Ngài”.
Chúa Giêsu còn nói đến một điều khác, rất thực tế và hằng ngày vẫn xảy ra trước mắt chúng ta: sự chia rẽ.
Như thế, xem ra Ngài tự mâu thuẫn vì Ngài hứa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài. Hiện ra với các môn đệ, Ngài luôn chúc bình an cho họ, tại sao Ngài lại đem đến sự chia rẽ? Ngài vẫn là sự bình an của chúng ta, nhưng Ngài vẫn là cái cớ cho người ta chia rẽ. Ông già Ximêon, khi ẳm em bé Giêsu trong tay, ông đã tiên báo: “Trẻ nầy sẽ là cớ cho nhiều người chống đối”. Sự chia rẽ nằm ngay trong vận mạng của Ngài. Ngài sẽ bị chống đối và sau cùng bị đóng đinh trên thập giá. Sẽ có nhiều người yêu mến Ngài, nhưng cũng có những người không chấp nhận tình yêu của Ngài. Điều nầy xảy ra gần như trong mọi gia đình, trong nhiều giáo xứ, và trong Giáo Hội. Ma quỉ luôn gieo cỏ lùng vào trong ruộng của Chúa.
Chúng ta thuộc về ai? Nhiều khi chính những kẻ theo Ngài lại “giơ gót đạp Ngài”. Phêrô chối Thầy, Giudà nộp Thầy, Phaolô tiêu diệt Ngài… Nhưng tình thương của Ngài sẽ thắng. Phêrô quy hàng, Phaolô khuất phục.
Sự bình an của Ngài chỉ được ban cho những ai thành tâm nhìn nhận tình thương của Ngài, dám chọn con đường thập giá của Ngài.
Ngài vẫn có mặt ở đây, trên bàn thờ hiến tế. Ngài không bao giờ bỏ rơi những đứa con trung thành của Ngài. Chúng ta sẽ bị bách hại, bị đàn áp, bị thóa mạ, nhưng chúng ta vững tin vì Ngài vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế và mãi mãi là của ăn hằng sống nuôi dưỡng để chúng ta đạt đến vinh quang khi Ngài đặt mọi sự dưới chân Cha Ngài.
42.Lửa an bình - Lm. Bùi Quang Tuấn
Nếu khẳng định Đức Giêsu là "Hoàng tử Bình an", người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình: "Các ngươi nghĩ: Ta đến để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo thật các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ! Vì từ nay, trong một nhà có năm người, sẽ có chia rẽ: ba với hai, hai với ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha với con, con với cha…"?
Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là "hiền lành và khiêm nhường" lại gây nên bao nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc hay tổ chức nào trên thế giới?
Người ta sẽ phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: "Ta đến ném lửa xuống đất và Ta mong sao lửa đó được cháy lên"? Đây có phải là thứ lửa mà anh em nhà Zêbêđê từng đề nghị Chúa đổ xuống đốt trụi dân thành Samari hỗn láo, hay thứ lửa đã thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi xưa kia chăng?
Khi nhìn vấn đề qua lăng kính "Lưỡi là lửa" trong thư của Thánh Giacôbê, thì lửa của Đức Kitô đã tương phản với thứ lửa hoen ố "do chính hoả ngục nhóm lên" (Gc 3:6). Ngài chính là "Chiếc Lưỡi"—Ngôi Lời của Thiên Chúa, làm phát sinh bao "lời hằng sống", nung đốt tâm hồn thế nhân và thúc đẩy một hành trình rao giảng. Lời Chúa phải được toả lan đến khắp mọi nơi và sưởi ấm cho hết mọi người.
Lời của Thiên Chúa đã từng thúc bách ngôn sứ Giêrêmia, một con người có tâm hồn diệu hiền và nhạy cảm, sinh ra để yêu mến, thích yên lành hơn gây phiền phức, thành một con người mang sứ mạng ra đi "để nhổ và lật đổ, để huỷ và để phá, để xây cất và để cấy trồng" (Gr 1:10).
Dù luôn cảm thấy mình như một đứa trẻ, nhưng Lời Chúa đã bắt ông đứng dậy, mở miệng ra nói những lời đanh thép và quyết liệt hầu thức tỉnh con cái Israel đang trong cảnh u mê lầm lạc. Thiên Chúa muốn cứu độ Israel qua việc vạch trần các thói hư nết xấu của dân chúng, sự lật lọng giả hình của hàng tư tế, thói bội phản thất ước của hạng quan quyền để từ đó Ngài đòi buộc họ phải có một sự chọn lựa phân minh: phúc hay hoạ, sống hay chết, bình an hay bất hạnh, cậy dựa Thiên Chúa hay con người.
Vì trung thành với sứ mạng truyền đạt Lời Chúa mà ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân chúng đối xử tệ bạc. Có lần người ta tìm cách ném ông xuống một giếng bùn cho lún sâu đến chết, hầu không còn tuyên sấm những lời của Giavê nữa. Nhưng một vị hoạn quan người ngoại là Abđêmêlech biết chuyện, đã tìm cách cứu ông ra khỏi giếng bùn. Về sau vì không nghe lời ông, người Do thái đã phản lại vua Babylon và cấu kết với Ai cập. Thế nên chẳng bao lâu, đất nước Giuđa đã rơi vào sự tàn phá kinh hoàng của dân Babylon. Vị ngôn sứ đã bị một nhóm người bắt đưa sang Ai cập. Có lẽ ông đã chết tại đây, giữa những kẻ hằng chống đối giận ghét, vì cớ ông không ngừng nói Lời Chúa để cảnh báo và thúc dục họ.
Theo nhận xét của một nhà chú giải Kinh Thánh là cố linh mục Nguyễn Thế Thuấn,: "Sứ vụ của Giêrêmia quả đã thất bại lúc ông sinh tiền, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Bởi giáo lý của ông về một Giao ước mới, đặt nền tảng trên lòng đạo, tôn giáo nội tâm, ông đã là cha của Do thái-giáo trong cái nhìn tinh ròng nhất… Đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu, nêu cao những liên lạc thân mật mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, Giêrêmia đã chuẩn bị cho Giao ước mới, và cuộc quên mình chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa đã biến ông thành một dung mạo của Đức Kitô".
Như vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã phô bày trọn vẹn dung mạo của người ngôn sứ khi phân rõ ánh sáng và tối tăm, điều tốt và điều xấu, chân thật và giả trá, cùng kêu gọi một thái độ rõ ràng: đón nhận hoặc khước từ, bước theo hay chống đối.
Lời ông Simêon nơi Đền thờ đã được xác nhận: "Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người té nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối" (Lc 2:34). Như thế tất có sự đối kháng, mâu thuẫn. Trong một gia đình, cộng đoàn, hay dân tộc, sẽ có người tin nhận và có người chống cự, có người tìm được bình an đích thực, nhưng cũng có người tự ru mình bằng thứ bình an giả tạo.
Bình an là nỗi khát khao trầm lặng của nhiều tâm hồn. Nhưng để có bình an đích thật lắm khi tôi phải trả giá bằng chiến đấu và hy sinh. Đây là một trong những điểm "nghịch lý" của Tin Mừng, nơi mà người ta thường bắt gặp những giá trị "trái ngược" như: cho chính là nhận, thu tích là mất đi, ai tìm sự sống sẽ phải chết, ai đành chết thì lại có sự sống…
Thực tế, có biết bao chân lý của Tin mừng đã không được nói ra vì sợ gia đình bất thuận, có bao sự thoả hiệp nghịch luân đã không được nhắc tới vì sợ cộng đoàn bớt người, và có biết bao nhập nhằng tội lỗi xấu xa vì sợ phải mang một vết thương rướm máu trong tâm hồn. Tất cả đều là những nguỵ trang giả dối và bình an trá hình.
Bình an thật sự chỉ có được khi con người biết "đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu" và "nêu cao những liên lạc mật thiết mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa". Bằng việc nhận chân và nêu cao giá trị tinh thần, cùng sự liên lạc thẳm sâu với Thiên Chúa, mà người môn đệ chân chính của Đức Kitô dám hy sinh những mối quan hệ cao quí trong cuộc đời. Dù đó có là quan hệ ruột thịt thân thương như cha mẹ với con cái.
Chắc hẳn lịch sử Giáo hội không bao giờ quên được hình ảnh của một Phanxicô Assisi, người dám lột bỏ hết mọi giàu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời. Lịch sử cũng không thể quên được hình ảnh của một Giêrađô Majella quyết liệt trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ dòng chữ: "Mẹ ở lại. Con đi làm thánh."
Lại còn nữa hình ảnh của một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nguy nan, để rồi cuối cùng, dù bị kết án lăng trì, vẫn không dập tắt được ngọn lửa khát khao: làm cho Tin mừng Phúc âm được cháy lên trên mảnh đất xa xôi và nghèo nàn này. Và còn nhiều… còn nhiều lắm các mẫu gương hào hùng của những con người đang tiếp nối việc thực hiện nỗi mong của Chúa Giêsu.
Là người Kitô hữu, tôi cũng được mời gọi dấn bước không ngừng trên hành trình loan báo các giá trị Tin mừng, để lửa yêu thương và bình an được bừng sáng khắp nơi trên thế trần.
43.Suy niệm của Lm. Vũ Mộng Thơ
THẦY KHÔNG ĐẾN ĐỂ ĐEM BÌNH AN NHƯNG ĐEM SỰ CHIA RẼ
Thoạt nghe những điều Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, ai trong chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao Chúa Kitô lại mang đến sự chia rẽ… Ngài đã chẳng giảng dậy cho các môn đệ: "các con hãy học với Ta sự hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng thì tâm hồn các con sẽ có được sự bình an" sao? Chúa Giêsu còn nói: "Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống!". Vậy nếu Chúa là Sự Thật, tức là Chân Lý thì Lời của Ngài không thể sai lầm được, không thể đi ngược hay mâu thuẫn với Sự Thật được. Tại sao và tại sao?
Là có lẽ tại vì chúng ta chưa suy niệm cho đủ và cho sâu Lời Chúa… cũng như trong cuộc đời chúng ta thường có thói quen kết luận "nhanh chóng và gọn nhẹ" những người chung quanh mình nhất là những người không cùng một lập trường với chúng ta, những người mà chúng ta không thích. Tục ngữ Việt Nam đã nói: "Sự Thật thì bao giờ cũng mất lòng". Ít ra hôm nay chúng ta có thể suy niệm hai điều trong bài Tin Mừng:
- Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
- Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
- Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Nếu sự thật bao giờ cũng mất lòng thì Chúa Kitô không ngại làm mất lòng trước hết những Đạo sĩ và Biệt phái kiêu căng tự phụ thời của Ngài để rao giảng chân lý cho dân chúng, để lột mặt nạ giả hình của họ: ra luật nhưng không giữ luật, để họ không còn ăn chặn đầu chặn cổ toàn dân, bóc lột xương máu nhân dân… mà vẫn lên mặt dạy đời là "người công chính trước mặt Giavê, là người lo lắng cho quốc gia và vận mạng của dân tộc… Chúa Kitô cũng không như những người tâng bốc chế độ, ve vãn những người có quyền hành trong một quốc gia, một đoàn thể để hưởng lợi và được che chở. Họ chủ trương "gió chiều nào theo chiều ấy" để họ lừa dối lương tâm, quên hết hay mặc kệ lẽ phải, luật của Chúa của Giáo hội để làm những điều sai quấy, những điều thất đức mà ngay chính lương tâm họ cũng không dám tự hào và đêm về cũng không ngủ cho yên. Chúa Kitô còn chấp nhận chính cái chết, một cái chết nhục nhã nhất để làm chứng cho Sự Thật. Vì chính Ngài cũng là Sự Sống và là Đường cho chúng ta nối gót theo Ngài. Sự Thật thì muôn đời vẫn chiến thắng và tồn tại, còn sự gian trá hay những tay sai của sự gian trá chống lại sự thật… thì dù có quyền phép có khôn ngoan như Luccifer, như Lênin, như Hitler… cũng rất chóng bị tan rã. Cũng thế đối với những giáo phái (secte), những chế độ cầm quyền gian trá bóc lột nhân dân trái với lòng Trời thì cũng rất chóng bị tan rã, hạ bệ.
- Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
Trước hết chúng ta hãy tự hỏi chính mình là đã có bao nhiêu lần tôi đã tự lừa dối chính lương tâm mình… thì đủ biết chúng ta còn rất nhiều thiếu sót trong lãnh vực này. Ai cũng muốn dễ dãi với chính mình nhưng lại rất nghiêm khắc với những người khác. Ai cũng muốn nghe người khác nói tốt về mình, khen tặng mình và không thích những ai chỉ trích phê bình mình. Ta phải tôn trọng sự thật và dám nói lên sự thật đó với con cái, với những ngưòi chúng ta có bổn phận dẫn dắt, dạy dỗ dù sự thật bao giờ cũng mất lòng. Cũng cần phải có "đắc nhân tâm", sự tế nhị và suy tư cũng như cầu nguyện để thực hiện điều này. Không phải dễ. Chúng ta cần học với Tiên tri Giêrêmia hôm nay dù cho "Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ", dù biết là toàn dân không thích mình một tí nào ca, vì theo Lời Giavê, Tiên tri loan báo toàn những ăn chay hãm mình… nếu không sẽ án phạt. Nhưng Giêrêmia đã phải chiến đấu với chính mình để trung thành với sứ mạng của Giavê của Sự Thật dù với cái chết. Xưa kia các bạo quyền đã giết sạch các Tiên tri, lên án tử hình ngay chính Con Thiên Chúa… thì ngày nay họ vẫn tiếp tục ám sát Gandhi, Luther King, Don Romco, bỏ tù các nhà truyền giáo, bắt giam cha Nguyễn Văn Lý… nhưng chính những vị ấy đã và sẽ chiến thắng… còn bạo lực sẽ rất mau chóng tan rã. Bạn có đồng ý như thế không?
44.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn triệt để sống tinh thần Tin Mừng vượt mức bình thường của mọi người, hoặc hăng say dấn thân làm việc cho Thiên Chúa, nhân loại và Giáo Hội đến nỗi phải hy sinh rất nhiều, thì thái độ của những người chung quanh bạn thế nào? khen ngợi hay chê bai? ủng hộ hay chống đối?
2. Đức Giêsu nói: Ngài đến không phải để đem lại hòa bình mà là sự chia rẽ, điều đó có đúng trong thực tế không? Xin đan cử vài trường hợp cụ thể.
Suy tư gợi ý:
1. Tâm lý chung của con người
Những ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn bè…) chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người đã từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân, hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng, «mát»… thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.
2. Tâm lý ấy bất lợi cho các ngôn sứ
Tâm lý của con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật là tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được tiếng Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương, đồng thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ phải đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những đồng đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc, và nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những điều mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những người thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là người thân thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không thể vì sự chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể làm gì khác hơn điều họ nghĩ.
Như thế, người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:
– Những hy sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm: Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ hơn người khác;
– Những hy sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà người ngôn sứ cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;
– Những hy sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất yêu thương mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình dấn thân ở mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá mức ấy có thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi, phải lo lắng và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc phải lo sợ cho sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân cho Chúa nhiều hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải phần nào chấp nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh mục hay một tu sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các bề trên mình, tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình có nhiệm vụ chăm sóc?
3. Chúa và ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ
Người ta thường nghĩ Đức Giêsu hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức Giêsu và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.
– Đem lại bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm buộc họ phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải sống cao thượng, anh hùng… nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.
– Gây chia rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giêsu, của tiếng lương tâm, con người sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại, gây chia rẽ… Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng thời đánh giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng lương tâm mà trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội… có sự chia rẽ, xung đột, tranh đấu, chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng về những người làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.
4. Sự chia rẽ đến từ những nhận thức khác nhau
Do cách nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác nhau, mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa, phục vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại ở mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và người ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này không thể có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.
Có những người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được những giá trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ trước mắt để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn người sau nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những giá trị đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng theo đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ nhau. Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt: cái tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi…
Chẳng hạn, Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng lại đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt và đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy xung đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo cho đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37).
Vậy, nhận thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước tiếng gọi của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong cùng gia đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau. Tình trạng có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà» (Mt 10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn sàng chấp nhận điều này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức ngôn sứ của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách ngôn sứ của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám can đảm chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc lương tâm con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình thương. Xin đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát trước bạo lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Kitô hữu buộc con phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình. Xin ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Kitô hữu trong con. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam