Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1358262

SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM

SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM (*)- Chú giải của William Barclay

 

Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.

1) Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc Âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dung của nó.

a) Đó là Tin Mừngchân lý (Gl 2,5; Cl 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nướ Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.

b) Đó là Tin Mừng hy vọng(Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọ

c) Đó là Tin Mừng bình an(Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biế Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ở một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ bị Ngài bắt phục chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.

d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa(Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải một Thiên Chúa của những lời hứ Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.

e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt(2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chế

g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi(Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cự Nó không phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.

2) Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đổi tâm trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thành Montaigne đã viết trong tập tự truyện của ông “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì chính bản chất của nó, để chẳng những tránh hành động, mà còn ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.

3) Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin Tin Mừng”. Tin Tin Mừng chỉ đơn giản có nghĩa là nắm lấy lời phán dạy của Chúa Giêsu, tin rằng Chúa đúng như lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, tin rằng Chúa yêu thương thế gian đến nỗi sẵn sàng hy sinh bất cứ điều gì để đưa chúng ta trở về với Ngài, tin rằng điều nghe ra khó có thể là sự thật, sẽ thật sự trở thành sự thật.

CHÚA GIÊSU CHỌN BẠN (Mc 1, 16-20)

Ngay sau khi Chúa Giêsu đã quyết định và xác định phương pháp hành động, thì Ngài bắt tay thiết lập bộ tham mưu của Ngài. Một lãnh tụ phải bắt đầu từ một điểm nào đó. Người ấy phải tự tạo cho mình một nhóm người để có thể thổ lộ tâm sự, để viết thông điệp của mình ngay trên tấm lòng của họ. Ở đây, Máccô cho chúng ta thấy việc Chúa đã thực sự đặt nền móng cho Nước Trời, và gọi số người đầu tiên theo Ngài.

Tại xứ Galilê có nhiều ngư dân, Josephus có một thời gian làm tổng đốc Galilê và là một đại sử gia của dân Do Thái, kể lại vào thời ông có 330 thuyền đánh cá trên biển Galilê. Dân chúng ở Palestine thường ít ăn thịt, nói chung thì hàng tuần họ không ăn hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ (Lc 11,11; Mt 7,10; Mc 6,30-44; Lc 24,12). Bình thường cá được đem muối vì không có phương tiện vận chuyển cá tươi. Cá tươi là một trong những loại cao lương mỹ vị ở các đô thị lớn, chẳng hạn như Rôma. Chính tên của các thị trấn nằm trên bờ biển hồ cho thấy nghề chài lưới rất quan trọng. Bếtsaiđa có nghĩa là nhà cá, một thị trấn khác trên bờ biển hồ tên Tarichaea có nghĩa là công trường cá muối. Chính tại đây cá được chuẩn bị để chở đến Giêrusalem và đến tận Rôma. Nghề buôn cá muối là một kỹ nghệ quan trọng tại Galilê.

Ngư dân thường dùng hai loại lưới, cả hai đều được đề cập trực tiếp hoặc ngụ ý trong các sách Phúc Âm. Có một loại gọi là sagènè, là một loại lưới kéo, người ta để nó ở phía sau lái thuyền, rất nặng và được thả ngay trên mặt nước, khi thuyền đi tới, nó chìm xuống dần dần, bốn góc lưới gặp nhau và trở thành một cái túi lớn nhốt cá vào trong. Loại thứ hai là loại mà Phêrô và Anrê vẫn dùng gọi là blestron, nó là một loại chài nhỏ, được khéo léo quăng ra bằng tay, nó có hình dáng như cây dù ném xuống nước và chìm dần để úp chụp cá vào trong.

Lẽ dĩ nhiên, nghiên cứu kỹ số người mà Chúa Giêsu đã chọn làm môn đệ là điều vô cùng thích thú.

1) Chúng ta chú ý xem họ là ai. Họ chỉ là những người thường, họ không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển chọn từ giới tư tế, hoặc dòng quý tộc, không có học thức cũng không giàu có gì. Họ chỉ là ngư dân, nghĩa là những con người tầm thường, bình dị. Chưa hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu. George Bernard Shaw có lần nói “Tôi chưa hề nghĩ gì về giai cấp công nhân, ngoại trừ muốn xóa bỏ nó đi để thay vào bằng những kẻ nhạy cảm”. Trong quyển “The Patrician”, John Galsworthy ký thác lời cho một nhân vật của ông: “Quần chúng, tôi không ưa họ, tôi ghét sự ngu xuẩn đê tiện của họ, tôi ghét tiếng ồn ào của họ, ghét nhìn thẳng gương mặt họ, nó nhỏ mọn xấu xí làm sao ấy”. Trong một cơn giận Carlyle đã tuyên bố rằng tại Anh Quốc có 27 triệu người thì đa số đều là những người điên. Chúa Giêsu đã không cảm thấy như vậy, Lincoln nói: “Đức Chúa Trời yêu thương giới bình dân, Ngài đã tạo ra họ thật đông đảo”. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi “hãy giao cho tôi mười hai người tầm thường, và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho tôi, tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành.

2) Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì. Họ đang làm công việc hàng ngày của mình, họ đang đánh cá, vá lưới. Với nhiều ngôn sứ cũng vậy, Amos nói “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng không phải là con của người ngôn sứ, nhưng tôi là một kẻ chăm sóc những cây vả rừng. Chúa đã bắt lấy tôi và phán cùng tôi rằng: Hãy đi, nói cho dân Israel” (Am 7,14.15). Tiếng gọi của Chúa Trời đến với một người không phải chỉ xảy ra trong nhà Chúa, cũng không chỉ ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hàng ngày. Một người sống trong một thế giới luôn có sự hiện diện của Chúa sẽ không thể nào trốn thoát khỏi Ngài được.

3) Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là “Hãy theo Ta”. Xin đừng nghĩ rằng hôm ấy là lần đầu tiên Ngài đứng trước mặt họ. Chắc chắn họ đã từng đứng giữa đám đông để lắng nghe Ngài; họ đã từng nán lại để trò chuyện cùng Ngài sau khi số còn lại trong đám đông đã giải tán, và họ đã từng cảm thấy một điều gì kỳ diệu từ đôi mắt vốn có sức thu hút lạ lùng của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hề nói với họ “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”. Ngài phán “Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng cá nhân đối với Ngài, tất cả đều bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩa là một khi muốn theo Chúa Cứu Thế chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông trong chúng ta, theo Chúa Cứu Thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Có người đã tâm sự “chúng ta thán phục người khác có lý do, còn chúng ta yêu người khác thì chẳng có lý do gì cả”. Sự việc xảy ra chỉ vì họ là họ, mà ta là ta, vậy thôi. Chúa Giêsu phán “Còn Ta khi Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Ga 12,32). Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Chúa Giêsu đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.

4) Cuối cùng, chúng ta chú ý đến điều Chúa Giêsu đã ban cho họ. Ngài giao cho họ một nhiệm vụ: Ngài không gọi để họ gặp mọi sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Có người bảo rằng, mọi người đều cần “một cái gì đó để có thể đầu tư cuộc sống của mình vào đây”. Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Ngài không phải để cho họ được mọi sự dễ dàng thoải mái, không phải để sống thụ động, cả ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện, chẳng làm gì cả. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để đến cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng bào đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra trong các trình thuật tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.

Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm (c. 14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa Giêsu từ hoang địa Giuđêa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó, “Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải qua nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do Thái và dân ngoại. Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh: phía bắc có Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu, Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong Isaia đã ứng nghiệm: “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời, trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).

Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8). Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu độ trần gian” (Ga 4,42).

Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7; So 3,15b; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu, Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt 12,28b).

Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở Ephêsô: “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).

Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả.

Gọi Các Môn Đệ Đầu Tiên (1,16-20)

Maccô vẽ nên bức họa huy hoàng này vào đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Mấy tiếng đầu tiên gợi lên một lời mời gọi hướng về biển khơi (c. 16a). Chúa Giêsu đang lên đường. Sứ vụ Ngài thật cấp bách. Biển hồ Galilê –được biết đến nhiều hơn qua cái tên hồ Tibêria là một biển nước mênh mông với 21 km chiều dài và 12 km chiều rộng. Bờ hồ hướng về một chân trời rộng lớn mãi tới những miền đất dân ngoại bên kia sông Giođan. Bờ hồ này thường được Maccô nói tới như một chốn phát sinh lời mời gọi (trong đoạn văn này và ở 2, 13-14), và lời loan báo Tin Mừng cho đám đông dân chúng (2,13; 3,7-12; 5,21). Nhưng hoạt động của Chúa Giêsu ở đây lúc này chẳng khác nào như đặt nền cho một công trình xây dựng.

Ngài “thấy ông Simon với người anh là Anrê đang quăng chài xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá” (c. 16b). phía bắc hồ Tibêria nơi hai ông đang thả lưới là nơi nước ấm hơn và có rất nhiều cá. Gần bờ có nhiều ngư dân sinh sống, họ đánh bắt, ướp mặn và buôn bán cá. Chúa Giêsu hướng nhìn tới hai ngư phủ đang thả lưới. Ngài gọi các ông: “Các anh hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Ta không biết những lời mời gọi kiểu này đã gây ấn tượng gì nơi các ngư phủ ấy. Ở đây Chúa Giêsu không ngại chơi chữ. Ngài dùng thứ ngôn ngữ của nghề đánh cá để thôi thúc họ dấn thân vào sứ vụ tương lai: “lưới người như lưới cá”, kiểu nói thật kỳ cục! Theo quan niệm của người “sémites”, trong lòng biển chất chứa quyền lực đáng sợ của sự Dữ và Tử thần mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới chế ngự nổi (4,35-41). Khi gọi những ngư phủ này để họ trở nên “kẻ lưới bắt” Chúa Giêsu mời họ theo Ngài đi vào trần gian giải thoát con người khỏi mọi điều dữ. Ta phải ngạc nhiên khi thấy Simon và Anrê mau lẹ đáp lại lời Chúa Giêsu kêu gọi (c. 18). Câu nói “bỏ chài lưới” nêu bật sự kiện những ngư phủ này từ bỏ công việc họ đang theo đuổi, và các ông bỏ dụng cụ hành nghề lại đó thật đột ngột khiến ta phải ngạc nhiên. Chẳng có trao đổi gì  giữa họ với Chúa Giêsu cả. Chỉ mình Ngài nói, còn các ông thì thực hiện lời Ngài, chẳng khác gì những người máy.

Còn phải ngạc nhiên hơn nữa khi đọc tới đoạn văn thứ hai vắn gọn và hoàn toàn song # đối với đoạn trên (c. 19-20). Lần này Chúa Giêsu không hề nói cho Giacôbê và Gioan biết họ sẽ làm gì. Thế mà chẳng những các ông bỏ dụng cụ hành nghề mà còn bỏ cả những người cùng chung sống nữa (cha già và những người làm công).

Các chi tiết của hai trình thuật trên đây diễn ra theo một trật tự giống hệt nhau:

– Chúa Giêsu đi ngang qua.

– Ngài thấy hai người là anh em với nhau.

– Ngài gọi họ.

– Lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài.

Không chắc chắn lắm là biến cố đã xảy ra như vậy và một cách tự động như thế. Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan sẽ trở nên những cộng tác viên chính với Chúa Giêsu trong sứ vụ của Ngài (3,16-17).

Phải chăng tình cờ mà họ được gọi và họ cũng chẳng kịp tự do quyết định nữa? Chẳng ai lại dấn thân vào một cuộc sống “khác” chỉ bằng một cái gật đầu rồi đi theo một kẻ xa lạ, dù kẻ ấy có sức lôi cuốn tới đâu chăng nữa! Trình thuật về các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan hẳn phải gắn với thực tế hơn (Ga 1,35-51). Trong đó ta thấy Chúa Giêsu mở cuộc đối thoại với những kẻ Ngài gọi và cho họ có thì giờ để quyết định cách chín chắn, sau một thời gian họ quen biết Ngài và đã ở với Ngài.

Maccô không quan tâm gì đến mặt tâm lý của sự kiện. Thế thì Maccô muốn cho trình thuật của ông có ý nghĩa gì? Câu trả lời sẽ dễ dàng nếu ta biết rằng Maccô đã cảm hứng từ một trình thuật mẫu về ơn gọi trong Thánh Kinh. Đó là câu truyện Elia gọi Elisê đi làm môn đệ ông (IV 19,19-21). Trong trình thuật này ta thấy người được gọi đã từ bỏ ngay mọi việc để đi theo thầy. Người ấy cũng chẳng được vị ngôn sứ cho phép về từ biệt cha mẹ nữa. Ngay tức thời, ông từ bỏ gia đình và nghề nghiệp: “Ông chỗi dậy và đi làm môn đệ Elia”.

Khi mô phỏng đoạn Thánh Kinh này để diễn tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, Maccô muốn nêu bật điều căn bản trong việc làm môn đệ Đấng Mêsia. Ông nhấn mạnh hai điều: Trước hết sáng kiến về lời mời gọi đến hoàn toàn từ Chúa Giêsu. Sau đó là chính lời mời gọi này: nó mang tính hiệu nghiệm tuyệt đối của Lời Thiên Chúa: “Ngài phán…và đã có” (x. St 1,3 v.v…). Hiệu quả của lời mời gọi đó là việc từ bỏ hẳn gia đình và nghề nghiệp. Chúng ta cần ghi nhận rằng không phải mọi người đều được yêu cầu cắt đứt những mối dây liên hệ cốt yếu và chính đáng này. Lời kêu mời chỉ được gửi tới một số người có ơn gọi rất đặc biệt. Simon (Phêrô) và Anrê, Giacôbê và Gioan là người được gọi để trở thành “cộng tác viên” gần gũi với Chúa Giêsu trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng (x. Thiết lập nhóm Mười Hai: 3,16-19).

Chắc chắn khi đặt trình thuật này như một “khai mở” cho toàn bộ cuốn Tin Mừng, Maccô đã có những ý định rõ rệt. Ý thứ nhất là Chúa Giêsu thi hành một tác vụ “nay đây mai đó”, đòi hỏi một cuộc sống và một sinh hoạt hết sức tự do. Theo quan điểm này, những ràng buộc với nghề nghiệp và gia đình sẽ gây cản trở. Tiếp đến, Maccô muốn hợp thức hóa sứ vụ Tông đồ như được trình bày. Sau khi thành lập nhóm Mười Hai, các môn đệ được sai đi từng hai người một, theo cách thức chính Chúa Giêsu đã dùng (x. Sai đi rao giảng: 6,7). Sau cùng, để đi theo Chúa, Phêrô và nhóm Mười Hai đã nêu gương từ bỏ tuyệt đối (x. 10,28). Có lẽ Maccô cũng muốn gợi ý với Giáo Hội Rôma, mà ông viết Tin Mừng cho, rằng trong cuộc bách đạo các Kitô hữu tân tòng cũng có thể được mời gọi từ bỏ những điều quý giá nhất: vị trí trong xã hội và những liên hệ gia đình.

Qua suốt dòng lịch sử của mình, Giáo Hội đã đọc được nơi những trang Tin Mừng này lời mời gọi những ai muốn theo sát bước chân Chúa Giêsu từ bỏ những của quý giá nhất.

Trình thuật vừa đọc cho ta cảm tưởng rằng những sự kiện ấy xảy ra cách dồn dập. Nó khác nào phần rút gọn của cả một cuốn phim sẽ diễn ra trong suốt Tin Mừng. Lời Chúa Kitô mời gọi khiến các môn đệ “cất bước đi theo Ngài và vận dụng hết nghị lực để phục vụ Ngài. Cần ghi chú rằng, đối với nhiều người, bút pháp của Maccô gây một cảm giác mau lẹ thúc bách người đọc. Ông sử dụng cả một lô trạng từ “lập tức”. Hai lần trong đoạn văn trên đây (c. 18a và 20a) và tới mười một lần chỉ nguyên trong chương thứ nhất thôi. Rất thường những tiếng “lập tức” này không hề có giá trị thời gian. Chúng chỉ tương đương với liên từ “và”.

home Mục lục Lưu trữ