Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1359343

SỨ ĐIỆP VỀ ĐỨC MARIA

SỨ ĐIỆP VỀ ĐỨC MARIA (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho thấy sự tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.

2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16

Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây “nhà” cho Thiên Chúa tại thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua.

Rm 16: 25-27

Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín từ ngàn xưa của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.

Lc 1: 26-38

Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ là Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.

BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)

Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là Vua duy nhất của dân tộc họ.

1).Vua Đa-vít muốn xây nhà cho Thiên Chúa:

Khi đã trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, thành Giê-ru-sa-lem được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.

2).Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.

Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây, ông đóng vai trò người tôi trung của vua.

Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng không phải vua Đa-vít xây nhà cho Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Ở đây, ông Na-than thực hiện chức năng ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Thiên Chúa phán với ông, dù lời ấy đi ngược với ý muốn của vua đi nữa.

Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.

3).Tầm quan trọng của sấm ngôn.

Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện:

“Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,

gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,

cho đến khi người làm chủ vương trượng đến,

người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10).

Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”. Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi hậu duệ vua Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, Đấng Mê-si-a sẽ mang lấy những dung mạo khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.

Chính ở nơi sấm ngôn của ngôn sứ Na-than nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai… Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).

BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)

Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cho cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị áp giải đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.

Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.

1).Mầu nhiệm được giữ kín từ ngàn xưa:

Đoạn trích nầy là một bài Vinh Tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa”, nhưng nay đã được biểu lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” từ văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như Khôn Ngoan. Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm Thiên Chúa vốn được giữ kín từ ngàn xưa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân nước.

2).Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:

Bài Vinh Tụng bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài Vinh Tụng hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cách thức kinh nguyện Do thái.

Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hiển lộ.

TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).

Trong sách Tin Mừng Lu-ca, hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” (1: 5-25) và hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi. Nhờ hình thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ca-ri-a tại thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tiền hô và Đức Giê-su.

1).Khung cảnh truyền tin (1: 26-27):

Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.

Hoạt cảnh truyền tin với ông Da-ca-ri-a đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.

2).Lời chào của sứ thần (1: 28):

Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.

“Hãy vui lên” là lời mời gọi ngân vang niềm vui mà các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a:

“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!

Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!

Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9)

hay:

“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dội đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!

Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi

Đức Vua của Ít-ra-en, đang ngự giữa người, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).

Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời Mê-si-a và chuẩn bị cho Mẹ tâm thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.

 “Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ: “Ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. “Ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết trước và sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa. “Ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.

“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy, thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước, được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông ngần ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.

3).Sứ điệp về Đức Giê-su (1: 29-35).

Sứ điệp sứ thần gởi đến Đức Trinh Nữ Ma-ri-a về Đức Giê-su được ngắt nhịp hai lần bởi hai câu hỏi của Mẹ (1, 29 và 34), nhờ đó sứ thần loan báo chân tính của Đức Giê-su, Con của Mẹ. Về câu hỏi thứ nhất, sứ thần mặc khải nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su, Ngài là Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô) thuộc dòng dõi vua Đa-vít (1: 29-33). Về câu hỏi thứ hai, sứ thần mặc khải nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su, Ngài đích thật là Con Thiên Chúa (1: 34-35).

A.Đức Giê-su là “Đấng Mê-si-a” (1: 29-33):

Cũng như ông Da-ca-ri-a, khi nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối và hỏi xem lời chào ấy có ý nghĩa gì. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.

Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”. Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được nhắc đến chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi vua Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải còn sâu xa hơn tiếp theo sau.

B.Đức Giê-su đích thật là “Con Thiên Chúa” (1: 34-35).

Đức Ma-ri-a thẳng thắn nêu lên vấn nạn: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc nầy cho thấy Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng “vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).

Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải sâu xa hơn: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần nhắc cho Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.

Để giúp Đức Ma-ri-a có thể hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”.  Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Từ đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình: “Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng là nguồn gốc thần linh của Hài Nhi, Con Trẻ này đích thật là Con Thiên Chúa.

4).Sứ điệp về Đức Ma-ri-a (1: 36-38).

Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà Sa-ra vốn đã hiếm muộn nay tuổi đã cao, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).

Trong hoạt cảnh truyền tin cho ông Da-ca-ri-a trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Trong hoạt cảnh truyền tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa vì Đức Giê-su, Con của Mẹ, không đơn giản là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng cũng là Con Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần thực hiện công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.

 Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà”, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa ngự ở giữa dân Ngài. Nơi cung lòng của Mẹ, Thánh Thần thổi hơi sự sống, sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả “xin vâng” tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi Giê-su được thụ thai trong cung lòng Mẹ.

Không có gì có thể ngăn cản ‎kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể bị ép buộc được, vì thế đòi hỏi sự ưng thuận từ phía Đức Ma-ri-a. Thiên Chúa trao gởi cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với tiếng “Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài cho nhân loại.

Tiếng “xin vâng” của Đức Ma-ria tỏa sáng nhân cách tuyệt vời của Mẹ. Tiếng xin vâng của Mẹ không là khởi điểm, nhưng là kết quả của một cuộc đối thoại chân thành, thẳng thắn của Mẹ. Những gì Mẹ không hiểu, Mẹ hỏi cho ra lẽ cho đến khi chạm đến mầu nhiệm của Thiên Chúa, lúc đó Mẹ cất tiếng xin vâng tràn đầy lòng tin, chan chứa lòng mến và hy vọng.

Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Con Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- B

CHUẨN BỊ GẦN CHO VIỆC CHÚA ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ

– Bài đọc I (2 Sm 7,1-5.8b-11.16) : Ngôn sứ Natan báo cho vua Đavít biết Thiên Chúa sẽ cho Đấng Messia xuất hiện trong dòng dõi của ông.

– Đáp ca (Tv 88) : Lặp lại lời Thiên Chúa hứa với Đavít qua miệng Ngôn sứ Natan.

– Tin Mừng (Lc 1,26-38) : Thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Maria hay Người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

– Bài đọc II (Rm 16,25-27) : “Tin Mừng mặc khải mầu nhiệm từ ngàn xưa vốn được giấu kín, nhưng nay được biểu lộ”

I). DẪN VÀO THÁNH LỄ

Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” càng thêm ý nghĩa. Đây chính là lời ngôn sứ Natan nói với vua Đavít trong bài đọc I hôm nay, và cũng là lời thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ trong bài Tin Mừng. Chúng ta hãy dọn tâm hồn cho xứng đáng để Chúa thực sự ở cùng chúng ta.

II). GỢI Ý SÁM HỐI

– Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà không lo chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng.

– Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo cho bản thân và gia đình mình mà không quan tâm đến những người khác.

– Đã bao dịp lễ Giáng sinh người công giáo chỉ biết mừng lễ với nhau mà không chia xẻ niềm vui cho anh em lương dân.

III). LỜI CHÚA

1). Bài đọc I : 2 Sm 7,1-5.8b-11.16

Sau khi vua Đavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Đavít :

– Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa.

– Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây “nhà” cho Đavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.

2). Đáp ca : Tv 88

Tv này ca ngợi Thiên Chúa đã trung thành giữ lời Ngài đã hứa với Đavít là sẽ cho “nhà” (triều đại) của ông bền vững muôn đời.

3). Tin Mừng : Lc 1,26-38

Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Đavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Đavít nữa.

Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người : Đức Giêsu là dòng dõi Đavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Đavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Đức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Đức Mẹ biết về tương lai của hài nhi : “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài… và triều đại Ngài sẽ vô tận”.

4). Bài đọc II : Rm 16,25-27

Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ : đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Đức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân.

Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Đavít và thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ : triều đại của Đức Giêsu mở rộng đến vô biên.

IV). GỢI Ý GIẢNG

* 1. Loài người muốn xây nhà cho Chúa

Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Đavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Đức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Đức Mẹ phải sinh Đức Giêsu trong hang đá.

Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta !

Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Đavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Đức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa.

Để chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng “cất nhà” cho Chúa. Đó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống ; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại ; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v.v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.

* 2. Thiên Chúa xây nhà cho loài người

Vua Đavít có kế hoạch xây một Đền thờ huy hoàng cho Chúa bằng tất cả những vật liệu quý giá nhất mà ông có thể có được. Đức Maria cũng có một hướng sống mà Người cho là đẹp lòng Chúa nhất : “Tôi không biết đến người nam”.

Thiên Chúa không từ chối ý tốt đó : Ngài nói với Đavít “Điều gì ngươi nghĩ trong lòng thì cứ thực hiện”. Nhưng Ngài giúp vua Đavít và Đức Maria thực hiện theo một cách thức vượt ngoài dự tưởng của các ngài : Natan nói với Đavít “Thiên Chúa ở cùng bệ hạ” ; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria “Thiên Chúa ở cùng cô”. Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.

Nhưng do đâu mà tâm hồn vua Đavít được Chúa chọn làm nhà ? Do lòng sám hối sâu xa về tội đã phạm. Và do đâu mà tâm hồn Đức Maria trở thành nhà của Chúa ? Do lòng khiêm tốn và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa : “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên sứ truyền”.

* 3. Đón nhận Chúa

Hai gương mặt nổi bật hôm nay là Vua Đavít và Đức Maria. Cả hai giống nhau ở điểm là muốn làm cho Chúa những gì tốt đẹp nhất, nhưng cuối cùng điều tốt đẹp ấy không phải là do hai vị làm cho Chúa mà là đón nhận việc Chúa làm cho mình.

Chuyện của hai vị gợi cho chúng ta một số ý tưởng :

– Thiên Chúa quý chuộng thiện chí của con người. Vì thiện chí nên vua Đavít và Đức Maria được Thiên Chúa chọn.

– Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Chương trình này vượt quá dự tính của con người.

– Nhờ vâng lời, con người được tham dự vào chương trình của Thiên Chúa và thiện chí của con người được Thiên Chúa nâng lên đến tầm mức kết quả không ngờ.

Chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Chúa bằng cách :

– Trình bày cho Chúa những thiện chí của mình.

– Khiêm tốn thưa với Ngài “Này con là tôi tớ của Chúa”

– Xin vâng theo kế hoạch của Ngài, cho dù có bất ngờ hay vượt quá dự tưởng của mình.

* 4. Chiếc đũa thần và Cô bé Lọ lem

Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.

Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng “đã là”, “đang là” và “sẽ là” của Maria :

– Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường : một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, mang một cái tên khá phổ biến là Maria (nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế). Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là “thuộc dòng dõi Đavít”.

– Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn : Maria “sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Đứa con đó “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người  ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”. Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ.

Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa : “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat. Trong Kinh Truyền tin, chúng ta vẫn đọc “Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”. Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem, sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú “Vừng ơi mở ra” vậy !

Nhưng Fiat là gì ? Fiat không hẳn là “Xin vâng”, vì “xin vâng” hàm ý là Maria sẽ đi làm theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người. Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu. Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người. Đúng hơn, Fiat là “Xin Chúa cứ làm cho tôi”, chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm “Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả” (Đáp ca).

Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, chỉ ở yên để Chúa làm, vậy thôi. Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào : Người muốn một tương lai êm ả, nhưng Chúa làm cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn. Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới.  Để Chúa làm có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Ngài định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài. Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp : “Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Đáp ca).

Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi ? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat : “Xin Chúa cứ làm cho con”

* 5. Xin vâng

Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau :

Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.

Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích. Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.

Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quảng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.

*

Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ : “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc.1,28). Vâng, mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành, tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.

Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần : “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc.1,3). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm : “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc.1,35). Như vậy, việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.

Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu : “Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc.1,38).

Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác, liền thưa : “Xin Vâng” (Lc.1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.

Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.

Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.

Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.

Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay tất cả, nhưng là tiếng “xin vâng” liên lỉ trọn kiếp người. Từ tiếng “xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.

*

Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm mầu của Chúa. Nhất là xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 6. “Xin Chúa cứ làm nơi con

“Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Câu này chẳng gây thắc mắc gì đối với những việc Thiên Chúa đã làm trong vũ trụ và trong lịch sử : Thiên Chúa đã làm ra trời đất muôn vật bao la vô vàn vô số ; Thiên Chúa đã làm bao phép lạ từ xưa tới nay v.v.

Nhưng tôi có thể áp dụng câu này vào chính bản thân tôi không ? Nói cách khác, Thiên Chúa có thể làm được bất cứ điều gì nơi bản thân tôi không ?

– Rất nhiều khuynh hướng xấu đã đâm rễ rất sâu trong con người tôi. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng tôi đã không bứng rễ chúng được. Thiên Chúa có bứng được không ?

– Tôi là một kẻ tội lỗi. Thiên Chúa có thể làm cho tôi thành một vị thánh không ?

– Tôi là một người rất ít khả năng. Thiên Chúa có thể dùng tôi để thực hiện những dự định lớn lao của Ngài không ?

Dù còn bối rối và chưa hiểu như Đức Maria ngày xưa, nhưng thôi, tôi hãy bắt chước Mẹ mà thưa lại “Xin Chúa cứ làm nơi con”.

V). LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, lễ Giáng Sinh đã gần kề, hôm nay Hội thánh nêu bật Đức Maria là mẫu gương cho những người tiếp đón Đức Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây :

  1. Đức Maria đã rộng lòng đón tiếp Đức Giêsu xuống thế cứu độ loài người / Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi thành phần trong Hội thánh biết noi gương Đức Maria / đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của mình.
  2. Đức Maria đã tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa rồi sẵn sàng vâng theo / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia biết tìm hiểu chương trình cứu độ của Đức Giêsu / để dẹp bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ đói với đạo Chúa.
  3. Đức Maria đã tin rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người là nạn nhân của chia rẽ, bất công, hận thù, nghèo đói không rơi vào thất vọng / nhưng tìm được hy vọng nơi Chúa là Đấng có thể làm được tất cả.
  4. Đức Maria đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu nhập thể cứu độ / Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn họ đạo chúng ta / biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu luôn được chúng ta tiếp đón trong cuộc đời.

Chủ tế : Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến với mỗi người chúng con, giúp chúng con biết đón nhận Đức Giêsu, để đem Đức Giêsu đến cho mọi người chung quanh chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…

home Mục lục Lưu trữ