Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1361495

SỨ GIẢ TIN MỪNG

SỨ GIẢ TIN MỪNG

 

Khi nói đến vấn đề truyền giáo, có lẽ theo thói quen, tôi và quý ông bà anh chị em thường nghĩ ngay đến các nhà thừa sai đang làm việc tại các nơi hẻo lánh, xa xôi. Cùng với suy nghĩ đó, một cách mặc nhiên, chúng ta coi công việc này là của các Linh mục, tu sĩ hay một số người nào đó, chẳng liên quan gì đến chúng ta. Thế nhưng, ngay từ đầu lịch sử của Giáo Hội thì không phải như thế, sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Còn những người bị phân tán, thì đi qua đâu, họ đã giảng Lời Tin mừng ở đó” (Cv 8, 4). Như thế, tất cả các kitô hữu đầu tiên đã thực hiện việc loan báo Tin mừng, hay nói một cách khác, họ là sứ giả của Tin mừng cho tất cả những ai họ gặp gỡ, nhất là những người chưa tin. Nếu truyền giáo là như thế, thì ngay tại địa bàn của chúng ta đang rất cần thực hiện công việc loan báo Tin mừng này.

Theo cuốn Niên Giám 2004 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì số tín hữu Công Giáo năm 2003 trên toàn quốc là 5.572.525 người trên tổng số dân Việt Nam là 80.175.578, chiếm tỉ lệ khoảng 6,95%. Một tỉ lệ thật khiêm tốn. Như thế, còn rất nhiều người đang sống quanh ta chưa biết đến Tin mừng tình yêu của Nước Thiên Chúa và, tôi thiết nghĩ, nếu Chúa Giêsu sống ở thời đại chúng ta, chắc hẳn Ngài cũng “động lòng thương xót họ; vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9, 36). Và rồi, Ngài cũng sẽ sai chúng ta lên đường như đã sai các môn đệ khi xưa.

Bài Tin mừng hôm nay, cho chúng ta thấy lòng thương xót của Đức Giêsu đối với đám đông dân Do thái theo Chúa khi xưa. Họ đang khao khát nghe lời Chúa dạy. Họ mong ước được Chúa giải thoát cho họ khỏi gánh nặng của lề luật mà các Luật sĩ, kinh sư chất trên vai họ. Đứng trước tình cảnh đó, Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ông cùng cộng tác với Ngài trong việc loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ lệnh truyền cuối cùng của Đấng Phục Sinh trước khi Ngài về Trời: “Các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân … dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi” (Mt 28, 19). “Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Ga 20, 21).

Khi được rửa tội, chúng ta cũng được tuyển chọn làm môn đồ của Chúa, nhưng để thực sự là môn đồ của Chúa, chúng ta cần phải nghe và tuân giữ lời của Ngài như lời cảnh báo của Chúa trong bài sách Đệ Nhị Luật “nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân,… Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh” (Đnl 19, 5-6). Và nếu là môn đồ của Ngài, tôi và quý vị cũng được Ngài chia sẻ sứ mạng và sai chúng ta đi làm sứ giả loan báo Tin mừng cứu độ của Ngài.

Như thế, sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa không phải là một việc làm tuỳ ý hay theo sở thích của chúng ta, nhưng là một sứ mạng của tất cả những ai mang danh là kitô hữu vì chúng ta đã nhận được ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, chúng ta cũng có bổn phận phải cho nhưng không (x. Mt 10, 8). Thế nhưng, chúng ta phải loan báo Tin mừng nào cho anh em chúng ta?

 

20.Thời giờ cấp bách

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm 3 phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên Chúa thương xót, giống như một mùa gặt bao la, nhưng thợ gặt lại thiếu, sau đó Ngài lại sai các môn đệ đi làm mùa gặt ấy. Cuối cùng Ngài dạy cho các ông biết phải làm gì. Chúng ta xét phần thứ nhất:

1) Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt thì ít… Theo thói quen, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh thông thường để giảng dạy một giáo lý cao siêu. Mùa màng tốt đẹp là một ơn lành quý giá đối với người Do Thái và để mất một vài mầm hạt cũng được gọi là thiệt hại đáng tiếc. Vì vậy lúc đó cần có nhiều nhân công để thu hoạch mọi bó lúa cho đúng thời: Nhân loại giống như mùa gặt ấy và các nhân công tinh thần có bổn phận tập hợp người ta và Vương quốc thì ít. Do đó cần phải xin Chủ mùa, cha nhân loại, sai các nhân công cần thiết là các Tông đồ đến với nhân loại ấy.

2) Vậy hãy cầu xin Chủ mùa sai thợ đến gặt đồng lúa của Ngài. Tại sao Chúa Cha không tự mình sai nhân công đi? Có lẽ vì hai lý do: trước hết vì Chúa đã quyết định rằng ơn cứu độ phải chuyển qua trách nhiệm của con người, nghĩa là thông qua dân Do Thái trước kia, thông qua Giáo Hội ngày nay. Giáo Hội chịu trách nhiệm về ơn cứu độ, ý thức tầm mức bao la của công việc, nên cầu xin Thiên Chúa cho có nhiều thợ loan truyền sự Cứu chuộc. Ở đây chúng ta gặp mầu nhiệm của lời kinh cầu bầu. Giáo Hội liên kết với Chúa Giêsu để xin Chúa Cha ban ơn cứu độ cho mọi người. Lý do thứ hai, Chúa Cha muốn cho lời kinh của chúng ta tạo được một kết quả mà chúng ta ít khi nghĩ đến. Lời kinh giúp ý thức mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của điều khẩn cầu và chuẩn bị chúng ta thực hiện điều ấy. Khi cầu xin Chúa Cha, sai các môn đệ đến thế gian, chúng ta hiểu được việc ấy hết sức quan trọng và chúng ta mở lòng ra để biết rằng, chính chúng ta phải làm Tông đồ. Như thế người ta càng cầu xin, và càng là Tông đồ càng cảm thấy cần cầu xin.

3) Phải mau lẹ thu mùa màng về, thời giờ thúc bách. Trong Kinh Thánh có nhắc đến bằng nhiều cách bổn phận phải biết dùng thời giờ để hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở Nước Thiên Chúa gần kề. Phải xin Chủ mùa sai thợ đến không những vì mùa màng đầy tràn, nhưng vì thời giờ cấp bách, hạn kỳ ngắn ngủi. Các vị Tông đồ chân chính buộc lòng khi thấy trong Giáo Hội số thời giờ bỏ phí để bàn luận mọi thứ vấn đề ít hay nhiều giả tạo, trong khi nhân loại là một mùa gặt đang sắp hư hại. Một lần nữa lại thấy nhu cầu phải cầu nguyện cho thấy các khẩn cấp chân chính. Chúng ta không xét đoán giá trị thực của một vài tìm kiếm và thí nghiệm mục vụ, những cần tự hỏi chúng ta có lo cầu xin Chúa Cha sai những Tông đồ đến thế giới chúng ta không? Lời cầu nguyện có biến đổi chính chúng ta đến nên những Tông đồ ý thức rằng thời giờ thúc bách hay không?

 

21.Hãy giúp đỡ người túng thiếu.

Đã có bao giờ bạn nghe nói về một gia đình có sáu linh mục và năm nữ tu chưa? Đức hồng y Hebert Vaughan, Tổng Giám Mục Westminste, nước Anh, đã xuất thân từ một gia đình như vậy. Gần 20 năm, thân mẫu Ngài quì cầu nguyện trước Thánh Thể một giờ mỗi ngày để xin Chúa cho các con bà trở thành linh mục.

Khi Đức Hồng Y tương lai ở tuổi 21, Ngài đã mô tả đời sống Chúa của thân mẫu Ngài: “Trong ngày, mẹ tôi thường ở trước Thánh Thể. Trước bữa điểm tâm... mặt người tươi tắn và bình thản... trong những ngày này tôi quá cảm ích về tình yêu nồng hiệt và lòng sùng kính của mẹ tôi đối với bí tích Thánh Thể”.

Và Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu xin của người mẹ phi thường này thế nào? Tất cả năm cô con gái của bà đã trở thành nữ tu – và 6 trong số tám người con trai của bà đã trở thành linh mục. Ba trong sáu linh mục ấy trở thành giám mục, và một trong ba Giám mục ấy được tấn phong hồng y.

Chúng ta phải nhận đây là câu chuyện hiếm có nhưng nó nhắc nhở như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.

Câu chuyện đó nhắc nhở như chúng ta thấy ngày nay rất cần nhiều linh mục, và những tôi tớ đặc biệt khác của Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều biết sự cần đến nhiều người được huấn luyện và được truyền chức để mang Thiên Chúa đến cho con người, và con người cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm gì để tăng triển số người dâng hiến đời sống cho việc đem Chúa Kitô đến cho thế giới?

Nhiều phương thế cổ võ ơn kêu gọi mở ra cho chúng ta. Tiếng gọi phụng sự Thiên Chúa vang vọng rõ ràng trong thán phục. Sự can đảm của học sinh mới tới và của Tom Brown đã làm cho những người bạn cùng phòng và cả trường thán phục.

Đó là một mẫu gương mà Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay. Ba lần Chúa bảo các tông đồ, cả bạn và tôi nữa: “Đừng sợ !” Ngài không nói sợ chung chung vậy. Ngài nói về một loại sợ đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy khi được mời gọi nói hay làm điều gì tỏ ra là người tin theo Chúa Kitô.

Chúng ta thường do dự nói những lời giống Chúa Kitô, làm như Chúa Kitô, vì chúng ta sợ người khác chê cười châm chọc, sợ bị gọi là người lên mặt đạo đức, hay một vị thánh, sợ bị ngược đãi như chiếc giày liệng vào đầu.

Chúa Giêsu đã không nói là không có lý do sợ hãi. Ngài biết rõ một số người chế nhạo những kẻ theo Ngài, có nguy hiểm mất bạn bè, mất việc làm, mất thăng chức, có hàng triệu người theo Ngài đành chịu chết còn hơn là chối bỏ niềm tin vào Ngài.

Có những lúc chúng ta có thể tỏ ra mình là người tin theo Chúa Kitô. Như Tom Brown, chúng ta có thể sợ đọc kinh cầu nguyện, sợ bị vỡ dầu hay sợ làm dấu thánh giá khi đi ngang qua nhà thờ, sợ đổi đề tài khi có người kể những chuyện tầm phào, thô tục, sợ từ chối đồ uống say sưa. Khi bạn bè đưa ra những khêu gợi ô uế, bạn có sợ mất tình bằng hữu vì phải khước từ không? Khi Giáo hội Chúa Kitô bị tra tấn một cách bất công, khi Giáo hội của Chúa Kitô bị nhạo cười ở lớp học, trong văn phòng, nơi công xưởng, bạn nhớ “Đừng sợ”, nhưng bênh vực đức tin không? Bạn có thể nghĩ đến nhiều hoàn cảnh khác trong đời sống mà bạn cần phải nhớ lời Chúa Kitô: “Đừng sợ”.

Bạn hãy xem xét điều này cho xác thực. Chúa Kitô hứa với chúng ta hôm nay: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”. Hay nói cách khác: bạn chối Chúa Kitô thì Ngài cũng chối bạn.

Sư hiện diện của bạn trong Thánh Lễ này là bằng chứng bạn không sợ công khai tuyên xưng Chúa Kitô. Ước mong thánh lễ này ban cho chúng ta sức mạnh tuyên xưng Chúa Kitô luôn mãi.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

22.Thiên Chúa luôn gần bên chúng ta

(Suy niệm của Charles E. Miller, C.M. – Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Đôi khi Thiên Chúa có vẻ như ở rất xa. Chúng ta không nhìn thấy Người và chúng ta không nghe tiếng của Người. Sau hết, chúng ta có thể suy nghĩ rằng, Người phải rất bận rộn từ khi Người sáng tạo nên vũ trụ này và Người có trách nhiệm chăm sóc chúng. Có thể nào Người đặc biệt quan tâm đến tinh cầu nhỏ xíu mà chúng ta gọi là trái đất trong vũ trụ mà Người đã sáng tạo này không? Tại sao Người lại có vẻ quan tâm đến những con người nghèo nàn và tội lỗi, trong khi Người có vô số các thiên thần đáng kính chầu chực trươc ngai của Người trên thiên đàng để ca ngợi Người suốt đêm ngày?

Có thể chúng ta không hiện diện đơn độc trong vũ trụ này đâu. Có thể có những thái dương hệ khác với một mặt trời và nhiều hành tinh khác còn huy hoàng rực rỡ hơn cả hành tinh của chúng ta nữa. Có lẽ có nhiều hành tinh khác cũng đông đúc các tạo vật mà nhiều khi họ còn siêu việt hơn cả chúng ta và luôn luôn trung thành với Thiên Chúa nữa. Còn nhiều vấn đề khác mà chúng ta còn chưa biết. Nhưng những gì chúng ta biết thì cũng đủ cho chúng ta lắm rồi. Chúng ta ý thức được chân lý không thể hiểu thấu là tại sao Con Thiên Chúa đã đến nơi thế gian này, không đơn giản chỉ sống ở đây mà thôi, nhưng Người còn chịu đau khổ vì chúng ta, đau khổ cho đến chết và chết vì chúng ta là một nhân loại tội lỗi.

Ngày hôm nay thánh Matthêu đã vẽ lại bức tranh Chúa Giêsu mạc khải sự thương xót của Người. Thánh nhân viết: “Nhìn đám đông dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương xót họ”. Chúa Giêsu xúc động bởi vì “thấy họ bơ vơ mệt mỏi vì kiệt sức giống như đàn chiên không có người chăn”. Đây là điều diễn tả một trái tim nhân loại được đầy tràn tình yêu thần linh.

Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, Người thí mạng sống vì con chiên. Thánh Phaolô đã kinh ngạc khi ngài suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta. Ngài diễn tả sự ngạc nhiên của mình trong lá thư gởi tín hữu Roma: “Hiếm khi thấy ai hiến mạng sống mình vì người công chính dù rằng có thể có người tốt dám can đảm để chết. Chính vì điều này mà Thiên Chúa đã chứng mình tình yêu của Người dành cho chúng ta, đó là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta”. Cái chết của Chúa Giêsu là trung tâm cho sự hiểu biết và cảm kích của chúng ta về sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta khi chúng ta cử hành việc đó trong mỗi hy tế Thánh Thể. Chúng ta được mời gọi để kêu lên rằng: “Khi chúng tôi ăn bánh và uống chén này, chúng tôi tuyên xưng sự chết của Chúa Giêsu Kitô cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang”.

Cái chết cứu độ của Chúa Giêsu đã trở thành một thực tại cho chúng ta nhờ việc chúng ta cử hành hy tế Thánh Thể chứ không hề là một việc xa cách hay lạnh lùng. Chúa Giêsu đã không chết cho chúng ta nếu như chúng ta là một đàn chiên vô danh. Người biết rất rõ mỗi người chúng ta. Người gọi tên từng người trong chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội như Người đã gọi tên mười hai người để trở nên tông đồ của Người. Đó là lý do vì sao chúng ta phải bước vào Thánh Lễ cách hiểu biết, sống động và sinh hoa kết quả bằng hành động (xem Hiến chế về phụng vụ, số 11).

Chúng ta không biết những gì đã xảy ra trong vũ trụ nhưng chúng ta biết Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian này và đã chết để cứu độ chúng ta. Chúng ta không biết những gì đang xảy ra trong giây phút này trong những ngân hà xa xăm khác, nhưng chúng ta biết rằng cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trên bàn thờ đã trở nên một thực tại cho chúng ta thông dự vào. Không bao giờ chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa của chúng ta ở xa xôi lắm. Ngay cả khi chúng ta không nhìn thấy hoặc nghe tiếng Người, chúng ta vẫn cảm nghiệm được tình yêu thần linh của Người trong việc cử hành hy tế Thánh Thể là tái diễn cái chết và sự Phục Sinh của Con Thiên Chúa.

 

23.Suy niệm của Lm. VIKINI

THƯƠNG DÂN CHÚNG LẦM THAN

Sau khi đi rao giảng Tin mừng khắp các thành thị, làng mạc, hội đường và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền, Đức Giêsu đã chứng kiến tận mắt cảnh dân chúng lầm than, vất vưởng như bầy chiên không người chăn.

Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có lãnh đạo chân chính về tôn giáo cũng như về chính quyền. Chính quyền thuộc về đế quốc Rôma cai trị. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: Chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê và Sađốc.

Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrôđê đại đế (37-11 av. Jc) người xứ Dumê phía nam Do thái.

Sađốc thuộc dòng dõi thượng tế Sađốc từ thời vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của Đền thờ Giêrusalem và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột dân. Tuy họ giữ luật Môisê (Torah) nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hoá thần tượng Hy Lạp và Rôma.

Trái lại, biệt phái (Pharisiêu) hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân.

Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisen. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là những tiến sĩ luật, những ký lục bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng.

Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối, thù hận nhau của phái Sađốc và biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”.

Dân ngoại và dân Samari không bị những hệ phái tôn giáo xâu xé tinh thần như dân Israel, có lẽ đây là lý do chính cho ta hiểu tại sao Đức Giêsu dậy các tông đồ đi đến nhà Israel. Phải cứu Israel trước, vì họ cực khổ hơn các dân khác, cũng như phải cứu chữa những con chiên lạc, những người Israel đau yếu, tật nguyền, quỷ ám trước những người Israel khác.

Để thực hiện chương trình cứu chiên lạc, Đức Giêsu căn dặn các tông đồ ít nhất là hai điều cần thiết: thứ nhất là phải biết chạnh lòng thương những người lầm than. Thầy chạnh lòng thương họ thế nào, môn đệ cũng phải thương họ như vậy.

Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ mọi mặt tích cực. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã “dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Cụ thể hơn, sách Xuất Hành đã nêu gương Môisê là người lãnh đạo dân phục vụ dân hết lòng, hết cuộc đời như Thiên Chúa muốn: “Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai cập thế nào và đã mang các ngươi như trên cánh phượng hoàng mà đem đến với Ta. Ta coi các ngươi như tư tế, như dân thánh” (Bài I).

Thương dân, tránh thái độ thờ ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi họ, họ tìm lợi lộc cá nhân đến nỗi họ “biến nhà Cha Ta thành chợ búa, thành hang trộm cướp”, Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thầy lăn lộn với dân chúng nghèo khổ bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị quỷ dữ hãm hại trong sự ác tội lỗi, đem Tin mừng nước Trời đến cứu chữa họ.

Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những Biệt Phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sàng vác gánh nặng, để gánh nặng của người dân trở nên êm ái và nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng tội lỗi. Ước chi môn đệ thí mạng sống chết vì dân, chết thay cho kẻ tội lỗi để chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa giao hảo với họ, cứu sống họ muôn đời (Bài II – Rm. 5, 6-11).

 

24.Thiếu Tông Đồ

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM.)

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Mathêu tỏ cho chúng ta thấy lòng yêu thương tha thiết của Chúa dành cho Dân Riêng Người và cho toàn thể nhân loại. Ngài viết: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng thương họ; vì họ tất tưởi bơ vơ, như những con chiên không có người chăn dẫn". Do đó, Người phán với các môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa" (xem Mt 9:36-38).

I. THIẾU TÔNG ĐỒ TRUYỀN GIÁO

Với cái nhìn khách quan, có lẽ không ai lại không thấy nhu cầu cần thiết phải có nhiều thợ gặt của Tin Mừng, nhiều vị tông đồ truyền giáo.

Trước thực trạng của thế giới hôm nay, đôi khi phải kể là bi đát, vì Giáo Hội có nhiều kẻ thù, kẻ thù hữu hình cũng như vô hình. Satan lợi dụng mọi mưu mô xảo quyệt để khuynh đảo niềm tin, ru ngủ lòng người. Hắn huy động nhiều cán bộ làm tay sai, lợi dụng ngay cả con cái trong Giáo Hội để bày ra nhiều đòn tâm lý, nhiều triết thuyết lầm lạc để đả phá Giáo Hội, chống đối Thiên Chúa. Hắn lợi dụng những kẻ nắm quyền bính trong dân để chấp nhận, để ban hành những đạo luật vô luân, thừa nhận và khuyến khích tội ác, khiến cho thế giới này dần dần trở nên nhơ nhớp, trên cơn nghĩa nộ Thiên Chúa... Thế mà, nhiều người vốn giả điếc làm ngơ, không thiết tha gì đến sự hưng thịnh của Giáo Hội và thế giới.

Lại có những người tỏ ra mình biết quan tâm đến nhu cầu cần thiết của Giáo Hội khi phát biểu cách trái mùa: Vì nạn thiếu Tông Đồ, nên tại sao Giáo Hội cứ khư khư giữ cái truyễn thống lỗi thời, không cho những người có gia đình hay phụ nữ làm Linh Mục. Những thứ người đó tỏ ra thiết tha đến Giáo Hội, nhưng thực sự lại là những kẻ chống đối Giáo Hội, vì họ đã phản lại Đấng Đại Diện tối cao của Chúa và các giáo huấn cũng như tinh thần của Giáo Hội.

Như chúng ta được biết: Ngay trong nội bộ của Giáo Hội tại Âu Châu, phát hiện một tuyên ngôn của 165 nhà thần học nói tiếng Đức, 63 nhà thần học và trí thức người Ý, 130 nhà thần học nói tiếng Pháp lên tiếng phản đối Tòa Thánh Vatican về cái mà người ta chụp mũ cho là "Trung ương tập quyền" hoặc "Khuynh hướng bảo thủ". Đó thực là một nguy cơ đang đe dọa tình hiệp nhất của Cộng Đồng Kitô Giáo ngay từ trong lòng Giáo Hội, ấy là chưa kể đến các kẻ thù bên ngoài luôn bày ra nhiều mưu kế để khiêu khích và tấn công Giáo Hội, khi ngấm ngầm lúc công khai.

II. SỰ MẠNG KHẨN THIẾT CỦA GIÁO HỘI

Là con cái của Giáo Hội, nhất là những linh hồn được tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến trong ơn gọi Tu Sĩ hay Linh Mục, chúng ta cần ý thức sứ mạng cao cả Chúa đã ủy thác cho Giáo Hội, cũng như cho mỗi người chúng ta tùy theo bậc sống và ơn gọi riêng của mình.

Chúng ta hãy nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II: "Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị mình, đều có bổn phận góp phần truyền bá Đức Tin, làm trọn lời Chúa phán qua miệng tiên tri Malachia: Từ Đông sang Tây, danh Ta sẽ được lẫy lừng khắp muôn dân, khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính tôn danh Ta" (Lumen Gentium #17).

Vì: "Làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mạng của Giáo Hội. Mỗi Tín Hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức" (Lumen Gentium #33). "Do đó, ơn gọi làm Kitô Hữu tự bản chất cũng gọi là ơn gọi làm tông đồ" (Lumen Gentium #17).

Nhưng chúng ta phải làm tông đồ bằng cách nào? Chúng ta hãy nghe thêm giáo huấn của Công Đồng: "Người Giáo Dân thực thi việc tông đồ bằng mọi công việc của họ, để rao giảng Tin Mừng và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Tin Mừng thấm nhuấn và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này, làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại. Vì bản chất riêng biệt của người Giáo Dân là sống giữa đời và làm việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi, để một khi tràn đầy tinh thần Kitô Giáo, họ làm tông đồ giữa đời như men trong bột" (Apostolicam Actuositatem #2).

III. TÔNG ĐỒ ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA

Lời Chúa phán với các Tông Đồ xưa: "Thầy thương đoàn dân này, vì họ tất tưởi bơ vơ, như những con chiên không có người chăn dẫn" và: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin Chủ Ruộng sai thợ đến gặt lúa" (Mt 9:36-38). Lời đó hôm nay Chúa cũng đang tha thiết phán với mỗi người chúng ta. Nhưng tinh thần thâm sâu của Lời Chúa còn âm vang tha thiết hơn nữa vào tận tầng sâu thẳm của linh hồn chúng ta: "Các con hãy cầu xin Chúa sai nhiều Tông Đồ đích thực, Tông Đồ chính danh, Tông Đồ tràn đầy tinh thần Tin Mừng và lửa mến Chúa tha thiết ra đi khắp nơi để chinh phục các linh hồn về cho Cha".

Nạn thiếu Tông Đồ là khẩn thiết, nhưng còn khẩn thiết hơn nữa, đó là những Tông Đồ đích thực; vì nếu không, họ sẽ chỉ là những tiên tri giả, những kẻ hữu danh vô thực, hay nói đúng hơn, họ là những kẻ quấy rối, những kẻ phá hoại, hay nói đúng hơn là những kẻ phá đạo.

Đây chúng ta hãy nghe một đoạn trích trong bức thư của Thánh Phanxicô Xavier từ Ấn Độ gởi về cho Thánh Ignatiô Loyola ở Âu Châu, là Bề Trên của ngài: "Nhiều người ở đây không được trở thành Kitô Hữu chỉ vì không có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ... Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đến các đại học ở Âu Châu, đặc biệt là đại học ở Sorbonne Balê, để la lên như một thằng điên cho những kẻ giầu trí thức hơn là thiện chí, yêu cầu họ hãy sử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn bảo con làm gì?"

Kết Luận

Mùa gặt Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay là gì? Chúng ta hãy đưa ánh mắt tinh thần nhìn xem thế giới: Biết bao người, không chỉ ở nơi các xứ truyền giáo, mà ngay tại các quốc gia chúng ta đang sống, họ đang khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm lẽ sống, tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc đời. Chúng ta hãy nghe lời một em nhỏ, vừa tốt nghiệp tại trường trung học nọ, đã được hầu hết các báo chí trong nước từng ca ngợi. Lời em nói như tiêu biểu cho khát mong của mọi người: "Cuộc đời còn có những cái cao quí hơn tiền bạc, television, tiệc tùng, danh vọng nữa!"

Còn thợ gặt Chúa nói với chúng ta hôm nay là gì? Là chính mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi riêng của mình, hãy trở nên chứng nhân cho Chúa, bằng chính cuộc sống thánh thiện của chúng ta, để như tấm men làm dậy thúng bội, như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, như muối ướp trần gian khỏi hư thối vì tội lỗi, hầu làm cho Chúa được tôn vinh, nhân loại được cứu độ.

Nhiều vị Tông Đồ tưởng rằng: Giới trẻ ngày nay có cái thị hiếu thích ồn ào náo động, cần phải có văn nghệ hát xướng rùm beng, với các ca sĩ thượng thặng khiến họ sùng mộ. Hơn nữa, cần phải đề cập nhiều tới tình yêu nam nữ, về phái tình, về sinh lý với những câu truyện tình tứ tiếu lâm mới có sức thu hút được họ!

Các vị đó đã lầm, giới trẻ không khát mong điều đó, mà có khi họ còn cười thầm và chê bai chúng ta sau lưng, đàm tiếu với nhau khinh thường chúng ta nữa là khác. Chúng ta hãy xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đi đến biết bao quốc gia trên thế giới, nhất là trong các dịp Đại Hội Giới Trẻ thế giới. Ngài toàn đề cao tình thần Chúa Kitô trong Tin Mừng, thế mà người ta cứ ùn ùn tuôn đến nghe lời ngài. Từng triệu người trẻ tới bu quang và say mê đón nhận lời giáo huấn của ngài, như là lời của chính Thiên Chúa nói với họ. Sau khi Đức Thánh Cha nói với họ về tinh thần của Chúa, ngài đã hô lớn tiếng: "Hỡi các bạn trẻ, Đức Kitô cần chúng con, cần đến tấm lòng trinh trong, cần tình yêu quảng đại của chúng con, để giúp Ngài hoàn thành sứ mạng, nâng nhân loại lên và mang Ơn Cứu Độ của Ngài đến cho thế giới. Đó là sứ mạng của Đức Kitô và Ngài chia sẻ sứ mạng này cho chúng con".

 

25.Người sai các ông đi

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM.)

Sau khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ, Ngài ban quyền năng trên các ông và sai các ông ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành các bệnh tật “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”.

Ngài là chủ vườn nho, là cây mà Thiên Chúa đã trồng. Thiên Chúa đã chuẩn bị đất đai, hoa màu, hạt giống, khí hậu thuận lợi để cây mọc lên và muốn cho cây đó lớn cùng bờ cõi trái đất, bao trùn hết mọi dân tộc, nên cây đó đến lần sai các đệ tử ra đi tỉa cấy, vun trồng, gieo vãi.

Chúng ta là dân Chúa, là Giáo Hội, có nhiệm vụ làm cho Giáo Hội triển nở. Các môn đệ ra đi gieo vãi, chữa lành và kết quả gấp bội, các ngài hớn hở vui mừng về khoe với Chúa. Chúng ta có thái độ nào trong việc xây dựng Giáo Hội? Chúng ta có thái độ như Phạm ngũ Lão không?

Phạm ngũ Lão người làng Hưng Yên, mồ côi cha từ còn nhỏ, nhà nghèo. Một hôm ông đang ngồi đan sọt ở vệ đường mà lòng mải nghĩ về đất nước . Quân lính đi qua lấy giáo đâm thủng đùi ông mà ông không hay. Hưng đạo cho người hỏi mới biết ông là người tài liền đưa ông về dinh. Ông đã đánh thắng quân giặc rất nhiều trận. Về sau ông bình cả quân Lào và chiêm thành nữa nên vua phong ông làm võ đại tuớng bình Chiêm.

Sự đóng góp của chúng ta dù bé mọn nhưng cũng là góp cho Giáo Hội thêm tiến triển. Đời sống chúng ta nếu tội lỗi thì sẽ ảnh hưởng đến Giáo Hội (một con sâu làm rầu nồi canh). Một người không sống đạo đức thánh thiện cũng có ảnh thưởng đến tất cả, đừng nghĩ một việc nhỏ nhoi không có giá trị gì. Đức thánh cha Piô 12 nói: ”Sự cứu rỗi của nhiều người còn tùy thuộc vào lời cầu nguyện và hy sinh của mỗi phần tử Giáo Hội”.

Chúng ta như vậy là có trách nhiệm phải sống tốt lành. Cha mẹ luôn tạo nên sự kính trọng trong gia đình. Người trẻ luôn kính trọng người trên. Người khoẻ biết kính trọng người yếu như thế làm nên một dây chuyền tốt lành làm phát triển Giáo Hội.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống thánh thiện đạo đức, làm gương sáng cho mọi người, như thế con làm ích cho Giáo Hội của con luôn mãi.

 

26.Thầy sai các con đi

home Mục lục Lưu trữ