Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 54

Tổng truy cập: 1356993

SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

 

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Phục Sinh. Bầu khí ồn ào náo nhiệt của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống, những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với một số tín hữu, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Đây là cái nhìn thiển cận và là một lối suy nghĩ lệch lạc về đời sống Đức tin. Để tránh những hiểu lầm đó, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa Phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ, để nâng đỡ, soi sáng họ trong đời sống Đức tin.

Một sự hiện diện gây ngạc nhiên: Bài Tin mừng hôm nay kể lại hai cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Cuộc gặp gỡ thứ nhất vào buổi chiều chính ngày phục sinh; cuộc gặp gỡ thứ hai sau đó tám ngày. Trong cả hai cuộc gặp gỡ này, tâm trạng của các môn đệ đều ngạc nhiên và vui mừng. Các ông ngạc nhiên vì chính các ông đã chứng kiến cái chết của Chúa mà nay Người sống lại; các ông vui mừng vì cuộc gặp gỡ này giúp các ông hiểu rõ hơn sứ mạng của Chúa. Cuộc gặp gỡ thứ nhất không có Tôma; cuộc gặp gỡ thứ hai, Tôma là trung tâm chú ý của mọi người. Nếu có những người xác tín vào sự phục sinh của Chúa, thì lại có những người chưa sẵn sàng để đón nhận tin vui này. Tôma đại diện cho những người chỉ tin khi chứng minh được bằng kinh nghiệm.

Một sự hiện diện giúp các môn đệ thêm sức mạnh: Cuộc gặp gỡ với Đấng phục sinh đã làm thay đổi suy nghĩ và quan niệm của các môn đệ. Các ông đã theo Chúa ít là ba năm, nhưng trước biến cố thập giá, con mắt và tâm trí các ông vẫn bị bao phủ. Trường hợp hai môn đệ buồn bã về quê ở Emmaus cho thấy các ông thất vọng trước cuộc khổ nạn của Thày mình. Khi hiện ra với các môn đệ, Đấng Phục sinh đã ban cho các ông Thánh Thần, là Đấng ban sức mạnh. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các ông, giúp các ông hiểu biết kế hoạch của Chúa Cha. “Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em”, không chỉ được sai đi, các môn đệ còn được Chúa ban quyền tha tội và cầm buộc. Tha tội và cầm buộc là chính sứ mạng của Chúa Giêsu. Từ nay, các ông lên đường, có Chúa ở với các ông. Các ông không còn sợ hãi, vì các ông hoạt động nhân danh Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết.

Một sự hiện diện toả sáng niềm vui. Sự hiện diện của Đấng phục sinh tác động và ảnh hưởng đến các tông đồ cũng như cộng đoàn tín hữu. Thánh Luca đã kể về một cộng đoàn tín hữu chỉ có một lòng một ý. Mọi người đều chuyên tâm cầu nguyện và chia sẻ bác ái. Kinh nghiệm về Đấng phục sinh đã giúp họ loại bỏ những bất đồng, để sống Đức tin. Trở về với nhân vật Tôma, ông không còn thách thức Chúa nữa, nhưng tâm phục khẩu phục. Lời thưa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” vừa là lời tuyên xưng Đức tin, vừa là lời sám hối chân thành. Đó cũng là tâm tình yêu mến chân thành mà người môn đệ bày tỏ với Thày mình. Hai môn đệ Emmaus đã vui mừng trở về Giêrusalem ngay trong đêm để kể lại với anh em mình về Đấng phục sinh. Tôma tuyên xưng đức tin với niềm vui và tình yêu mến. Mỗi chúng ta cũng vui mừng vì cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Đấng đã chết và đã sống lại.

Chúng ta cử hành mầu nhiệm Phục sinh với niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa. “Phúc cho những người không thấy mà tin”. Tin là chấp nhận một điều dù con mắt không nhìn thấy. Tin cũng là chấp nhận một chuỗi những điều bị coi như nghịch lý so với quan niệm thông thường. Quả vậy, còn gì “nghịch lý” hơn là một người đã chết rồi sống lại? Còn gì “nghịch lý” hơn một người đã sống cách đây hai ngàn năm, mà hôm nay vẫn đang hiện diện giữa chúng ta? Thiên Chúa quyền năng cũng là Thiên Chúa của những nghịch lý ấy, và Ngài làm cho những nghịch lý trở thành hiện thực.

 “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tn vào Người thì sẽ không phải thất vọng.

Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót. Cuộc đời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Người, cuộc khổ nạn thập giá và phục sinh, tất cả đều diễn tả lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Nhận ra lòng thương xót của Chúa, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với anh chị em đồng loại, để tình thương của Chúa lan toả đến mọi người, mọi môi trường xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô ước mong nơi nào có cộng đoàn tín hữu, nơi đó sẽ trở thành một linh địa của lòng thương xót. Đây cũng là điều đã thực hiện nơi cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mà sách Công vụ đã kể lại.

 “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).

 

8.Bình an

Bình an là một khát vọng của con người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thế nhưng, có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn dien. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình và có thể ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai hiểu thấu được lòng người, để có thể đem lại một sự bình an vào tận cõi thẳm sâu ben trong, bởi vì ít ai có được sự bình an đích thật ngay trong cõi lòng mình, đễ rồi có thể chia sẻ cho người khác.

Con người chỉ có thể kiến tạo sự hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sống ngầm vẫn sôi sục ở đáy lòng. Vì thế, hòa bình trên thế giơi từ trước cho đến nay thường chỉ là một nền hoàn bỉnh giả tạo và mong manh. Dĩ nhiên, có được nền hòa bình ấy vẫn còn tốt hơn là không chi, hay chỉ biet lao mình vào lửa đạn chiến tranh.

Sự bình an mà Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại không phải là loại bình an đó, nhưng là một sự bình an của chính tâm hồn, mà Ngài đã có được khi chến thắng tội lỗi, bằng cái chết của Ngai trên thập giá. Sự bình an của Đấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng, khi chấp nhận hy sinh mạng sống cho chúng ta. Nói cách khác, đó là sự bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sư chia sẻ chính mình Ngài cho chúng ta. Sự bình an của Đấng giờ đây cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, vì không còn thuộc về mình, nhưng đã thuộc trọn về những người mình yêu thương. Thánh Phaolô gọi đó là sự bình an của thập giá, và như lời thánh tông đồ đã xác quyết: Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại sự bình an cho muôn loài dướt đất và muôn vật trên trời.

Như vậy, bình an của thập giá là bình an của Đấng đã lấy chính máu mình làm phương tiện thiết lập giao ước mới, hay có thể nói một cách cụ thể hơn, đó là chất keo dính, gắn bó nhận loại vơi Ngài và găn bó nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xoa bỏ tội lỗi, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hỏa giải với Chúa và trở nên một thân thể duy nhất.

Như vậy, nhờ thập giá, Chúa Giêsu đã hòa giải nhan loại với Thiên Chúa, cũng như đã hòa giải nhân loại với nhau, từ đó phát sinh ra sự bình an chân thật. Chính vì thế, để có được sự bình an Chúa trao ban, chúng ta cũng phải sống tinh thần hòa giải. Hòa giải với Thiên Chúa bằng cách xóa bỏ mọi tội lỗi, cũng như hòa giả với anh em bách cách xóa bỏ mọi hận thù. Và như chúng ta thường xác quyết: Sự bình anh chính là hoa trái của việc hòa giải với Thiên Chúa và với anh em.

 

9.Chúa Nhật 2 Phục Sinh

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

HÃY NĂNG CHẠM VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Chúa Nhật II Phục sinh trước đây được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi nhưng vẫn là một, không hề đối nghịch. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn của Chúa Giêsu đã mặc khải với Thánh Faustina. Qủa thế, năm 1980, với tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chọn Chúa Nhật II Phục sinh là ngày kính nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa.

Khi nói đến Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), Thánh Kinh Cựu ước viết: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Hay “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3)… Còn Tân ước thì kể: dụ ngôn về đứa con hoang đàng (Lc 15,14-32), dụ ngôn Con Chiên Lạc (Lc 15,4-7) và dụ ngôn Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15,8-9)… Nhưng, tựa trung LCTX được mặc khải qua cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, có nghĩa là LCTX của Chúa thể hiện nơi mỗi người chúng ta đó là ơn tha thứ và cứu độ.

Qủa thế, Chúa Giêsu thực hiện LCTX bằng việc “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10,38), “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35), cho kẻ chết sống lại (Ga 11,1-44) và rồi chính Ngài Ngài để mình bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá, chết và sống lại. Như vậy, Thập giá và phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa muôn đời dành cho con người. Qủa thế, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cho nên, Lòng Thương Xót Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh, chịu chết và sống lại là được thấy Chúa, vì Chúa đã sống lại và chúng ta cũng sẽ được sống (Ga 14,9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới này sẽ làm cho chúng ta được cứu độ ngay đời này và đời sau. Cứu độ là gì? Cứu là cứu lấy, độ là đưa qua. Chúa cứu chúng ta tội lỗi đưa ta đến sự thánh thiện, Chúa cứu lấy cái chết phần hồn đưa ta đến phục sinh cả hồn lẫn xác.

Cụ thể, trang Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu tỏ các vết sẹo tình yêu Chúa, tức là các vết sẹo của LTXC ngang qua cho các tông đồ, đặc biệt ông Tôma đã xem tận mắt và tận tay đụng vào những vết sẹc của Chúa. Người ta nói: “tốt khoe, xấu che”, hơn nữa theo tâm lý thường tình khi nhìn lại những vết sẹo, gợi lại nỗi đau đớn khổ sở nên chẳng ai muốn nhìn, chẳng ai dám khoe, ấy vậy mà Chúa Giêsu hôm nay khoe, tại sao? Vì đưa xem vết sẹo tình, Chúa Giêsu mời chúng ta đụng vào trái tim Đức Giêsu, một Chúa có trái tim đầy tình yêu tha thiết, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu. Cho xem và đụng vết sẹo tình là cho biết và đụng vào Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá, máu và nước đổ ra để chúng ta được chữa lành, biến đổi tận cân từ tâm hồn ra thể xác nhờ tình yêu và quyền năng của Chúa. Xem và đụng vào sẹc tình là đụng đến Chúa phục sinh, chính nguồn bình an đương nhiên, chúng ta cũng chạm và có được bình an của Chúa. Xem và đụng vào sẹo tình là đụng đến Chúa phục sinh, tin vào Ngài chúng ta sẽ được phục sinh đồng hình đồng dạng và đồng tư tưởng, lời nói và việc làm như Ngài.

Cho nên, bài đọc 2, Thánh sử Gioan nói: “Ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1 Ga 5:1). Chúng ta được Thiên Chúa tái sinh, vậy chúng ta phải yêu thương yêu thương nhau, nếu không thì chúng ta là những người ích kỷ và nói dối. Yêu thương cũng là thương xót. Vì vậy, Thánh Gioan nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1Ga 5,2-4). Vì vậy, chẳng lạ chi, bài đọc hai kể “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”.

Vậy, LTXC thật tuyệt với biết bao! Chúng ta được tận hưởng LTXC thì chúng ta phải thực thi LCTX với tha nhân: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Trong tâm tình đó, Tông đồ Giuđa gởi lời chúc tới tất cả chúng ta: “Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương” (Gđ 1,2), và “hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (Gđ 1,21).

Cho nên, ngày 13 tháng Ba 2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở một “Năm Thánh đặc biệt” gọi là “Năm Thánh Lòng Thương xót”. Năm Thánh bắt đầu với việc mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 08-12-2015, Đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, và kết thúc vào ngày 20-11-2016, Đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Với “Năm Thánh Lòng Thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đặt trọng tâm nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng mời gọi các tín hữu trở về với Người. Gặp gỡ Chúa sẽ giúp chúng ta biết thực thi lòng thương xót.

Đức Kitô phục sinh là hiện thân cuối cùng của LCTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Xin cho mỗi người chúng biết chạy đến đụng chạm vào LTXC qua việc sống Lời Chúa và Rước Mình Máu Ngài để được Chúa xót thương chữa lành hồn xác chúng ta hằng ngày. Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin thương xót chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nâng đỡ chúng con luôn. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ