Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1360716
SỰ HOÀN HẢO DỰA TRÊN LÒNG KHOAN NHÂN
SỰ HOÀN HẢO DỰA TRÊN LÒNG KHOAN NHÂN
Trong sách, "Bản Tính của Thế Giới Vật Chất," Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của sự bước vào một căn phòng như sau: "Tôi đang đứng nơi ngưỡng cửa sắp bước vào phòng. Nó là một sự việc phức tạp. Trước tiên, tôi phải chống lại sức đẩy của không khí với sức mạnh của mười bốn trọng lượng trên mỗi thước vuông của thân hình tôi. Mỗi lần đặt chân trên sàn, tôi phải biết là tôi đáp xuống trên một tấm ván đang di chuyển với tốc độ hai mươi dặm một giây chung quanh mặt trời..." Phân tích một sự việc thường như đi bộ trong phòng, các nhà khoa học cũng thấy thật hấp dẫn. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ đơn giản mà đi vào. Và chúng ta nghe là không khí rất cần cho chúng ta thở và không có nó chúng ta sẽ chết. Nhưng trước khi chúng ta biết điều đó, thì chúng ta đã thở.
Hãy đọc đoạn đầu của Kinh Thánh, "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất..." (St 1:1). Thánh Kinh không bắt đầu với một lý do căn bản sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được thừa nhận.
Trong thư gửi cho Roma, Thánh Phaolô viết, "Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình" (Rm 14:7). Hết thảy đức tin bắt đầu với ý nghĩa của sự lệ thuộc vào Một Đấng, phẩm chức cao cả hơn chính chúng ta. Thường gọi là bản năng, trực giác, khôn ngoan bẩm sinh, gọi là gì tùy theo bạn, nhưng nó là một phần của chúng ta. Tại vì chúng ta là chính chúng ta, ý nghĩa lệ thuộc vào một đấng siêu việt khác đã ăn sâu tận gốc rễ của con người chúng ta. Con người đã dùng nhiều cách thế thật khéo léo để tạo nên chiến tranh chống lại tôn giáo, để xóa bỏ ý tưởng về Thiên Chúa trong tâm trí của loài người, nhưng tất cả đều bị thất bại, vì Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người. Bạn không thể tẩy xóa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống bạn vì không có Thiên Chúa, thì không có sự sống.
Martin Scott, đã để lại câu chuyện mà ông ta đã kinh nghiệm trong lúc đi săn bắn ở miền Arkansas như sau:
Tôi rất là khoẻ mạnh, rất sành ghề cỡi ngựa, đuổi bắt bò, khi tôi đã dẫn bò đến đồng cỏ rộng để cho các súc vật chạy nhảy. Con bò đã đi trước, và tôi cỡi ngựa đi theo sau, ngẩng cổ lên để nhận biết đồng cỏ rộng bao nhiêu. Vào ngay lúc đó, con bò đã quay lại húc tôi; con ngựa tự nhiên phản ứng quay bánh xe. Sự thay đổi bất thường này đã ném tôi xuống khỏi yên ngựa, cả người tôi đã bị ném xuống, nhưng chân tôi vẫn treo một bên cổ ngựa. Chân thì đang treo mắc lại còn cổ thì dọc thẳng xuống đất. Con bò lại húc vào xương sườn của con ngựa ngay chổ tôi đang bị treo, và con ngựa đã lúng túng vì sức nặng của tôi, trong tư thế đó con bò đã tấn công con ngựa.
Cuối cùng, tôi đã bị kiệt sức; tôi cảm thấy tôi có thể bám thêm một hai giây nữa: nhưng đầu con bò đã đến quá gần tôi, đến nỗi tôi có thể cảm được những hơi gió từ mũi con bò thổi vào mặt tôi. Tôi đã tuyệt vọng; tất cả lời cầu xin tôi có thể làm được ngay lúc đó là tôi đọc lại Thánh Vịnh từ thuở xưa tôi hay đọc: "Bây giờ con xin phó thác để được nghỉ yên;" và tôi đã đọc đi đọc lại hai ba lần. May mắn thay, con ngựa đã quay đầu, tấn công con bò. Húc vào con bò một cái, làm cho tôi tí nữa té xuống đất, tung tôi lên lại trên yên ngựa, thế là tôi đã lấy lại được thế chỗ ngồi trên lưng ngựa.
Trong mỗi một người, đều có một bí nhiệm mà họ không thể nào hiểu. Nó có thể chất chứa lâu năm hầu như đã bị quên lãng; hoặc có thể đã bị đè nén cho đến chết. Nhưng vào một đêm nào đó, khi họ một mình trong sa mạc dưới bầu trời đầy sao, họ sẽ đứng lên cúi đầu, với một đôi mắt ướt đẫm, hoặc có lúc khi họ bám víu vào những chiếc thuyền đang bị gió bão xô đẩy trong nỗi thất vọng; hoặc họ nắm chặt bánh xe trong lúc xe đang bị xoay chiều, và thình lình, từ sự bị quên lãng của chính họ, bí nhiệm này sẽ được bộc lộ ra qua lời cầu xin. Không ai sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình.
Đức tin Kitô hữu trưởng thành có nghĩa hơn là chấp nhận tính chất của Đấng cao cả. Nói rằng, "Tôi tin Thiên Chúa" trong một cách người Kitô hữu trưởng thành là "Tôi tin cậy vào Thiên Chúa và tôi sẽ sống theo huấn giới của Ngài. Thánh ý của Thiên Chúa đã được thực hiện và tỏ ra cho tôi qua Chúa Giêsu." Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải ý định của Thiên Chúa cho đời sống của bạn và tôi trong sự kiện tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa rằng, "Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" "Không," Chúa Giêsu đáp, "Không phải bảy lần, nhưng 70 lần bảy" (Mt 18:21-22). Đây là cách nói của Chúa Giêsu là tha thứ không giới hạn trong sự thương yêu. Nước Trời, Chúa Giêsu giải thích cho Thánh Phêrô, được xây dựng trên nền móng của sự thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta tin cậy ở Ngài. Chúa nói với ta rằng, để trở nên con người trọn vẹn như Chúa muốn, để được hạnh phúc đích thật, chúng ta phải học biết tha thứ cho anh chị em vô điều kiện, không phải chị bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy.
61.Luôn tha thứ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh họa thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tí, chúng ta nhất định không tha tứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để bụng, chết mang đi". Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hỏa ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèn hoặc trong trận lôi đình đập đánh chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: "thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta". Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: "Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con".
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quãng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xóa bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thủy và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gãy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta qua Kinh Thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
62.Tại sao tha thứ?
(Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật của Lm Cantalamessa - Người giảng Phủ Giáo Hoàng giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật)
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều:
* * *
NHƯNG NGƯỜI TA PHẢI THA THỨ BAO NHIÊU?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: "Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, "mắt đền mắt, và răng đền răng," đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: "Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh", nhưng, "Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác." Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: "Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn " Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu." Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng "bảy mươi lần bảy."
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác-- nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói: "Tôi tha thứ cho anh!", chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta: "Xin tha thứ cho tôi!" Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
63.Tha thứ không giới hạn
(Suy niệm, Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
2) Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
a) Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
b) Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
c) Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
3) Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
3.- Vài điểm chú giải
- Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: "Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)", vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 ("Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy"), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là "bảy mươi lần bảy", hoặc "bảy mươi lần bảy lần". Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
- đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
- Mắc nợ mười ngàn yến vàng... một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
- Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
- buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
- trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là "nói toạc ra hết; làm sáng tỏ".
- thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
- trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài "sự tha thứ". Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ "phạm tội chống lại con" ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. "Bảy lần" mà ông gợi ra không hề không đáng kể. "Bảy" là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: "Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?".
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời "đúng thế", nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là "bảy mươi lần bảy". Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức "bảy mươi lần bảy", Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn "Tên mắc nợ không biết thương xót", Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị "vua" dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. "Thanh toán sổ sách" (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ "đầy tớ" mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người "phụng sự" Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. "Con nợ" và "mắc nợ" là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva' có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; "ông tha": động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là "đầy tớ độc ác" (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho "anh em" (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (5,7). Nói về "anh em", tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
2. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: "Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
3. Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
4. Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
64.Bài học tha thứ
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay tha thứ, chứ không phải là vì tội nhân đáng được thứ tha. Cũng có những khi ta thấy Thánh Kinh nhắc đến việc Chúa nỗi cơn thịnh nộ và quyết định sửa phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh Kinh nói về những trường hợp mà người ta đã tử khước tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho loài người, mà còn nói đến bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau.
Trong Phúc Âm Chúa nêu lên trường hợp người đầy tứ được tha thứ nhiều nợ nần, nhưng lại không tha thứ cho người khác chỉ nợ anh ta phần nhỏ. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người hãy tha thứ và làm hòa với nhau. Đó cũng là cơ hội để ta học cái bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Cái điều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, khiến ta nghĩ rằng anh ta cũng phải đền đáp bằng việc tha thứ cho người chỉ mắc nợ anh ta một phần nhỏ.
Cái điều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi ta bị xúc phạm và thiệt thời nặng nề. Đó có lẽ là điều khó nhất trong các giới răn của Chúa. Có những nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can mà người ta không dám nói ra. Ai đã bị bạn bè hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi đắng cay đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người đàn bà bị phản bội khiến họ không còn muốn gặp và tin tưởng vào bất cứ người đàn ông nào khác.
Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nặng trên tâm hồn. Tuy nhiên ta cảm thấy thật khó lòng. Nhưng đó là lúc ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là ta tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong Bài Sách Đức Huấn ca ghi lại, hay là tha thứ để được tự do, để tâm hồn được thanh thoả. Ngay cả sau khi đã quyết định tha thứ, cái cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện cho người đã súc phạm đến mình. Rồi cái cảm giác đau lòng sẽ dần dần biến đi với thời gian. Và tâm hồn ta lại được bình an thư thái.
Trong Phúc Âm, Chúa dạy ta phải tha thứ 70 lần bảy, nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, vô giới hạn. Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hàng ngày, những người làm cùng sở, thì việc tha thức lại càng khó lòng, nhưng là điều cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể đếm được bao nhiều lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau, nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống?
Bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay cảnh giác ta báo thù là dấu chỉ của tội lỗi. Người để lòng báo thù và ghen ghét đã quên đi cái giao ước với Thiên Chúa. Cái ngụ ý của Bài Phúc Âm hôm nay là giận ghét sẽ thống trị con người khi người ta quên đi cái liên hệ của mình với Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc.
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Người quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Chúa sẽ tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải. Chúa hiểu sự yếu đuối của loài người và sẳn sàng tha thứ. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Nhận thức rằng con người là bất toàn cho nên ta phải sẳn sàng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân, gây đau khổ cho người người khác. Tha thứ là chấp nhận người thống hối để tái lập tình bạn và tình thân hữu. Là người Công giáo ta bắt đầu thánh lễ với cầu xin tha thứ. Ở đây, ta có cơ hội thú tội trước cộng đồng, trước khi dâng của lễ lên bàn thờ. Cái việc tha thứ giữa người với người là điều kiện để được Chúa thứ tha cho loài người.
Vậy hôm nay, ta hãy cầu nguyện, xin Chúa tha thứ khi ta đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con và khi chúng ta chúc bình an cho nhau.
65.Hãy tha thứ cho người khác
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói:”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện:”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 27, 30 – 28.7.
Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ:
- Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.
- Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.
- Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.
- Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
- Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
+ Bài đọc 2: Rm 14,7-9.
Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Roma hay phê bình chỉ trích nhau vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề, ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu... Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo. Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định: Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài có ý khuyên: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,21-35.
Ông Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu: khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần? Có đến 7 lần không? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ: “quá tam ba bận” thôi.
Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.
Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.
Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em thì Thiên Chúa mới tha cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thứ
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tha thứ thì được thứ tha.
I. Thiên Chúa là Đấng tha thứ.
1. Trong Cựu ước.
Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín... dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt...”. Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng:”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).
Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5)? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
2. Trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói:”Các ngươi có nghe lời truyền rằng: hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng: hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời: vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán:”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói:”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
II. Con người phải tha thứ.
1. Thực hiện lời Chúa dạy.
Người ta thường nói:”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng:”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không”? Chúa Giêsu đáp:”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22; Lc 17,4).
Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố:”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.
(R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
2. Người đời và sư tha thứ.
Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:
* Nhận xét của nhân gian.
Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân:”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
* Chủ trương của hiền nhân quân tử.
Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
. Nhà Nho dạy thế nào? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu:”Dĩ đức báo oán”.
. Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
. Ông Tertullien nói:”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
. Hiền triết Marc Aurèle nói:”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.
. Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
Truyện: Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một hoàng đế Trung hoa nói:”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ tâu vua:
- Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
Hoàng đế trả lời:
- Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
* Cách trả thù hay nhất.
Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.
Ông Swift nói:”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.
Marc Aurèle nói:”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này: đừng giống họ”.
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.
Mạnh Tử nói:”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
Truyện: Trọng danh dự
Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le Tasse nghiêm trang trả lời:
- Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
(Hoàng Xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta:”Anh muốn vui sướng trong chốc lát: cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.
III. Chúng ta cũng phải tha thứ.
Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện. Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện:
. Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15; Mc 11,25; Lc 11,4).
. Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24); Mc 11,25).
Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi,và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói:”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng: không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
Văn hào Goethe đã nói:”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói:”Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không:”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
Truyện: Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói:”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa:”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp:”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam