Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1356284

SỰ KỲ DIỆU CỦA VIỆC THI HÀNH LỜI CHÚA

 

SỰ KỲ DIỆU CỦA VIỆC THI HÀNH LỜI CHÚA

Minh An

Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ X hôm nay, thánh sử Marcô đã kể rất chi tiết về những lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi Người trở về nhà mình.

Đầu tiên, là giáo huấn về sự hiệp nhất: các kinh sư từ Giêrusalem xuống, cho rằng Đức Giêsu đã lấy quyền của quỷ để trừ quỷ, đó là một sự nhục mạ Thiên Chúa, nên Người dạy cho họ biết rằng: “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy, Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số” (Mc 3, 24-26).

Thứ đến, là giáo huấn về tội phạm thánh: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần là gán cho thần ô uế một hành động mà Thiên Chúa thực hiện. Cố ý gán ý đồ xấu cho các hành động tốt của người khác, của Giáo Hội hay các nhóm khác là nói phạm thượng đến Thánh Thần (chú giải của CGKPV).

Cuối cùng, là giáo huấn về việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa để trở nên mẹ và anh, chị, em của Người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 34.35).

Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc lắng nghe và thi hành lời Chúa là giáo huấn tuyệt diệu, bởi vậy chúng ta chỉ dừng lại để suy gẫm điều tuyệt diệu này:

* Thành quả của việc thi hành lời Chúa

Có lẽ Vịnh gia đã đọc Lời Chúa, sống Lời Chúa cách rất thiết thực và ông đã cảm nhận được rằng, Lời Chúa như là “Kim Chỉ Nam” luôn dẫn đường đưa lối cho ông trong cuộc sống, nên ông đã phải xướng lên: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105). Còn ngôn sứ Giêrêmia, tuyệt diệu hơn nữa khi ông cảm nhận được Lời Chúa như là một thứ lương thực đem lại sức sống thần thiêng cho ông, bởi vậy, ông đã sung sướng nuốt ngay Lời Chúa vào lòng mà thốt lên: “Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16). Và thánh Giacôbê, trong thư của mình đã khuyên nhủ các tín hữu hãy thực hành Lời Chúa, vì khi thi hành Lời Chúa là người ta sẽ tìm thấy được hạnh phúc trong mọi công việc mình làm: “Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình… Ai thi hành Lời Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 22. 25). Nhưng với Chúa Giêsu thì điều cao quý hơn nữa là Người đã trực tiếp ghi nhận những ai nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì sẽ được gọi là mẹ, là anh chị em, là bạn hữu của Người. Hay nói khác đi, những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa là được Chúa Giêsu cho gia nhập vào gia đình thánh thiêng rộng lớn của Người: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35).

Thánh sử Marcô đã diễn tả việc Chúa Giêsu đang giảng dạy Lời Chúa trong bối cảnh mà rất nhiều người đang chú ý lắng nghe. Người nhà của Chúa Giêsu thấy vậy và cho rằng Người bị mất trí, nên đến tìm cách bắt Người về, nhưng có lẽ đám đông đã làm cản đường, họ không thể bắt Người về được. Người nhà của Chúa Giêsu đã tiếp tục đưa cả mẹ của Người đến để mong sao có mẹ, Chúa Giêsu sẽ nghe lời và theo về nhà? Một lần nữa, đám đông dân chúng được xem như là “vật cản” làm cho người nhà không thể tiếp xúc được với Chúa Giêsu, vì họ ngồi chật hết cả đường đi, nên có một số người đã mách cho Chúa Giêsu biết có mẹ và anh em của Người đến tìm Người, nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã dạy cho họ biết giá trị về việc nghe và tuân hành ý Chúa chính là gia nhập vào gia đình của Chúa: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em, chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy. Nhưng Người đáp lại, ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi? Rồi Ngài rảo mắt nhìn những người ngồi chung quanh và nói: đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 33-35).

Quả thật, Điều tuyệt diệu là ta có một gia đình huyết tộc bao gồm: ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì… Nhưng còn cao quý biết bao hơn nữa khi chúng ta có thêm một gia đình linh thiêng rộng lớn đến vô chừng, không có “điểm dừng”, cũng chẳng có “đích đến”... được nối kết bởi sợi dây liên kết là Chúa Giêsu, vì ta đã nghe và thi hành ý Chúa. Như thế, đi đâu ta cũng có “Nhà” và tới đâu ta cũng có “Bà Con”; Nhà, chính là nhà của Thiên Chúa; Bà Con chính là những người thuộc con cái của Cha chung Trên Trời.

Để có “Nhà” và có “Bà Con” thì ta cần lắm một trái tim biết yêu thương, biết mở rộng tấm lòng, để đón nhận tha nhân, và luôn hướng về Chúa, thi hành ý Người, vì: “ phàm ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, là Đấng ngự trên trời, thì người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 35).

Bởi vậy, hãy sẵn sàng nghe và thi hành ý Chúa để bước vào gia đình rộng lớn của Chúa, để đón nhận mọi người làm cha, làm mẹ, làm anh chị em, bạn hữu... trong tình liên đới với Chúa Giêsu.

 * Đức Maria, mẫu gương về việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa

Chúa Giêsu đã xác nhận những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa không chỉ là những người đã được kết hiệp thân tình trong gia đình của Chúa, nhưng cũng còn là cách gián tiếp Chúa đề cao giá trị của Đức Maria, vì chính Mẹ là người đã lắng nghe và tuân hành ý Chúa cách trọn vẹn nhất. Mẹ luôn “ghi nhớ và suy đi, nghĩ lại tất cả những điều đó trong lòng” (Lc 2, 51). Và nhất là Mẹ đã để Chúa thực hiện những kỳ công của Ngài trên cuộc đời của Mẹ qua tiếng đáp xin vâng: “ Này, tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Ngài cứ thực hiện cho tôi những điều sứ thần truyền” ( Lc 1, 38). Chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.

Noi gương Mẹ Maria, chúng ta cũng được mời gọi luôn lắng nghe Lời Chúa, đáp tiếng xin vâng theo thánh ý Chúa và nhất là thực hành Lời Chúa cho nên trọn, để ta được xứng đáng đón nhận vào gia đình thánh thiêng của Người, như chính Người đã khẳng định: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy chính là anh em tôi, là mẹ tôi” ( Mc 3, 35).

 

25.“Điên”-- Hiền Lâm

Bài hát “Mùa Đông Của Anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có một câu lột tả sự thật của tình yêu đôi lứa là: “Em chỉ là người điên trong vòng tay tình ái”. Thật vậy, khi yêu nhau, người ta như một “kẻ điên” theo sự rung cảm của con tim hơn là lý trí; người ta biết đau khổ và rắc rối do chính sự lựa chọn đem lại, nhưng vẫn lao vào, thậm chí biết rằng có thể mất tất cả từ danh dự đến sự nghiệp, thậm chí mất cả mạng sống… chỉ vì yêu.

Khi yêu, một vị vua cao sang quyền thế không ngần ngại quỳ xuống cầu hôn một cô thôn nữ quê mùa, một ông chủ sẵn sàng đánh đổi tất cả để được yêu một người nô lệ… và một Đức Giê-su là Chúa đã bỏ ngai vàng trời cao xuống kết thân với con người, đến nỗi phải hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu. Tắt một lời, khi yêu làm người ta lắm khi như người mất trí, như người điên.

Cùng với sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa, chúng ta được mời gọi sống sự “điên rồ của thập giá”, đoàn kết xây dựng Hội thánh Chúa và trở nên như “mẹ và anh em của Chúa”.

 1. Bước theo “sự điên rồ” của thập giá.

Bài Tin Mừng hôm nay trước hết kể chuyện thân nhân của Chúa Giê-su phải đi bắt Người về, vì nghĩ là Người bị “mất trí”. Chúa Giê-su như “điên” vì yêu nhân loại, hi sinh cho dân đặc biệt là cho các bệnh nhân, đến nỗi không còn thời giờ để ăn uống ngủ nghỉ.

Thánh sử Mác-cô kể rằng, khi nghe biết Chúa Giê-su và các môn đệ về nhà, dân chúng đã kéo đến đông đảo, làm cho Chúa Giê-su không dùng bữa được. Phải, Chúa luôn sẵn sàng đón nhận mọi người đến bất kỳ lúc nào để chữa lành cho họ.

Cái “điên” của Chúa là tất cả cho con người đến nỗi hy sinh cả mạng sống vì con người. Thánh Phaolô cũng đã nói về sự “điên rồ của thập giá”. Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su dành cho con người, đó là yêu đến mức điên cuồng, yêu đến mức như mất trí, lo lắng giảng dạy và chữa lành cho con người đến mức không còn thời gian ăn uống và ngủ nghỉ. Tắt một lời, Chúa yêu con người hơn cả chính mình.

Để rồi từ đó, rất nhiều những tâm hồn bước theo Chúa Giê-su và “điên vì Chúa”…

Xưa cũng như nay, vẫn hàng hàng lớp lớp những chàng trai cô gái trẻ trung bước theo tiếng gọi dâng mình cho Chúa, tuyên giữ sống độc thân và bỏ lại tất cả những gì mà thế gian tìm kiếm. Phải, họ đã điên vì Nước Trời.

Và cũng vì “điên bởi tình yêu dành cho Chúa” mà các thánh tử đạo sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng cho niềm tin và lòng yêu mến các linh hồn.

2. Chia rẽ sẽ tiêu tan, hiệp nhất nên bền vững.

Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn trong khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Ki-tô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhân là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Ki-tô bị phân rẽ và tổn thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do-thái kết án người là lấy quyền quỷ tướng để dẹp quỷ lính.

Nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Ai Cập hay nơi các tộc ít người, người ta biết cách bùa chú để yểm hại người khác, để trừ được bùa yểm cần phải có một thầy pháp cao tay hơn kẻ yểm bùa. Có lẽ cũng vì ảnh hưởng quan niệm này và vì sự ghen ghét mà một số người Do-thái đã độc miệng nói Chúa Giê-su dùng quyền của quỷ tướng để bắt nạt quỷ con.

Thế nhưng Chúa Giê-su lại nhân cơ hội này để dạy chúng ta bài học về sự đoàn kết, hay nói chính xác hơn là hiệp nhất.

Hình mẫu cho sự đoàn kết là tính hiệp nhất bởi Ba Ngôi Chí Thánh. Hội thánh Chúa từ khắp nơi trên thế giới đều hiệp thông và vâng phục một Đức Thánh Cha, cùng một cử hành phụng vụ, cùng một niềm tin, một Phép Rửa… Và có lẽ không tôn giáo nào có thể sánh được sự hiệp nhất đến mức duy nhất này. Và chính nhờ sự duy nhất này của Hội thánh mà sức mạnh hoả ngục đã không thắng được, dù Sa-tan đã dùng sự thù địch chia rẽ để chống lại.

Ngày nay, nơi này nơi kia trong Hội thánh đang bị những thế lực thù địch bách hại, hơn lúc nào hết, mọi người Công giáo trong tình liên đới, hãy đoàn kết với nhau, để cùng chung lời cầu nguyện…

Thế giới Ki-tô giáo ngày nay đã bị phân tán nhiều. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có Giáo hội Chính thống, các Giáo hội Đông phương và hàng trăm các giáo phái Tin lành khác nhau. Việc phân tán giữa thế giới Ki-tô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa, hoặc chưa tin theo Chúa.Vì thế, sứ vụ của người Ki-tô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.

Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.

Chúa Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha” (Mc 3,28). Đây là một vấn nạn rất khó giải thích.

Có hai cách hiểu:

Thứ nhất, theo đoạn Tin Mừng vừa nghe, thì đang khi Chúa Giê-su dùng quyền năng Chúa Thánh Thần để trừ quỷ, thì các Biệt phái lại nói ngài dùng quyền “Tướng Quỷ – Thần Ô Uế” để trừ quỷ. Nghĩa là đã cố tình coi việc của Chúa là việc ma quỷ. Có thể nói, việc này đang xảy ra nơi một số người hiện nay, khi theo những nhóm này nhóm nọ, trong đó có nhóm “sứ điệp từ trời” coi Đức Thánh Cha do công nghị Hồng Y bầu lên là giả, coi công đồng Vatican II là do ma quỷ bày ra…. Mong là mọi người ý thức điều này để đừng bị Sa-tan lừa gạt đi theo nó mà chống lại Giáo hội do Chúa Ki-tô lập.

Thứ hai: Chúa Thánh Thần là nguồn của bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng không thể cứu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustino từng dạy: “Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Người ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ?

Tội nguyên tổ đã cắt đứt con đường giữa ta đến với Chúa, Chúa Giê-su đã nối lại con đường bằng cây cầu thập giá, nhưng nếu ta không chịu bước trên cây cầu thập giá ấy thì vẫn xa lìa Chúa; giống như một người bị giam giữ bởi kẻ thù, có vị tướng đến mở cửa ngục dẫn ra, nhưng tù nhân cứ an than trong đó không chịu ra khỏi ngục thì vị tướng đến giải thoát kia cũng đành chịu thôi.

3. Là mẹ và anh em của Chúa.

Có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ nghĩ rằng, Chúa Giê-su xem nhẹ sự hiện diện của Mẹ Người chăng? Không phải thế, Người còn đề cao mẹ Maria nữa là khác, vì trong việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có ai bằng Mẹ được, bởi: “Đức Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.

Chúa Giê-su coi việc những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em Người, như thế thật phúc cho ai sống và thực hành Lời Chúa.

Thật vậy, chúng ta trờ thành mẹ Chúa – bởi vì đã gián tiếp sinh ra Đức Ki-tô nơi anh em. Như thánh Phaolô đã chia sẻ cảm nghiệm của mình: “Trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4:15)

Tuy nhiên, muốn làm mẹ Đức Ki-tô thì điều kiện đầu tiên là phải cưu mang Chúa trong tâm mình: Muốn cưu mang Chúa trong tâm mình thì phải cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa sống động thực sự bằng tâm của mình, chứ không phải bằng lý thuyết suông. Năng suy niệm Lời Chúa cho đến khi cảm nhận như Chúa động đậy trong tâm mình, thì khi đó thực sự Chúa đã ở trong chúng ta và đang lớn lên. Khi có Chúa trong mình, thì chúng ta sẽ sống và hành động như Chúa Giê-su và luôn làm đẹp ý Cha trên trời.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu, là biết hy sinh nhiều, không đắn đo tính toán, không chọn lựa phẩm chất của bạn đời, nhưng yêu cả con người, yêu cả đức hay tính dở của họ. Amen.

 

26.Chúa nhật 10 Thường Niên--Lm. Ignatiô Hồ Thông

HẠNH PHÚC THẬT

Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục nơi giai cấp lãnh đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được Đức Giêsu thực hiện khi Ngài khẳng định rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đỗ và thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

St 3, 9-15

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

2Cr 4,13 – 5,1

Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín hữu thân yêu của ngài sẽ được sống với Chúa.

Mc 3, 20-35

Đức Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (St 3, 9-19)

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của tội và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

1. Những tác hại của tội (3: 9-13):

Tác giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.

A. Tội phá vỡ mối giao hảo của con người với Đấng Tạo Hóa (3: 9-11):

Thuở ban đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa thường đến dạo chơi trong vườn với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà. Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.

B. Tội làm rạn nứt tình chồng nghĩa vợ (3: 12-13)

Thuở ban đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây người chồng đổ hết trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một xương một thịt” giữa chồng và vợ, mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm của mình.

2. Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (3: 14-15)

Thiên Chúa phán xử con rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước sự chiến thắng của loài người trên con rắn, tên cám dỗ.

A- Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14):

Trước hết, Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:

“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.

Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).

Lời luận tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm để trả lời cho những câu hỏi như: tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó khác biệt với các loài khác? Tại sao lại có mối thù giữa loài người và loài rắn? Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải “bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại, bị hạ nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một lần nữa phản bác việc phụng thờ thần rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ, thần rắn được tạc tượng giống như con rồng có chân đứng thẳng để nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu; thần rắn cũng được cho rằng có thể ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên, nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.

B- Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ (3: 15):

Tiếp đó, Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống người nữ sẽ chiến thắng trên dòng giống con rắn:

“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).

Lời tiên báo này có thể được giải thích cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói: “dòng giống của người đàn bà”, và tất cả những quyền lực của sự ác qua kiểu nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này, Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho con người. Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy vọng là một ngày kia nhân loại sẽ chiến thắng trên những quyền lực của Ác Thần.

Tuy nhiên, bản dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt chủ từ ở số ít giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”. Theo cách hiểu của bản dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Maria.

Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giêsu trong vòng tay của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế, lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ.

BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)

 Thánh nhân vạch rõ rằng đau khổ của Đức Giêsu mặc khải tình yêu Thiên Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những đau khổ của thánh Phao-lô nẩy sinh trong tình yêu mà thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây được đặt trên “cùng với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có thể đạt đến nhiều người chừng nào có thể.

TIN MỪNG (Mc 3: 20-35)

Bối cảnh không gian của phân đoạn này chính là Đức Giêsu đang ở trong một ngôi nhà có đám đông vây quanh. Còn bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng tướng quỷ mà trừ quỷ.

Bản văn này được cấu trúc theo lối hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch đảo” như sau:

A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 20-21).

 B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22).

 C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27).

 B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30).

A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35).

A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 19b-21):

20. “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến”: Giới thiệu hoàn cảnh của Đức Giêsu vào lúc đó. Đây chắc là nhà của thánh Phê-rô.

21. Bà con họ hàng của Đức Giêsu đến để bắt Người về, vì họ nghĩ rằng Người đã mất trí. Khi xử sự như thế, họ chỉ muốn gìn giữ thể diện danh giá của gia tộc và bảo vệ mạng sống cho Đức Giêsu. Nhưng điều ấy cho thấy rằng các thân nhân của Người tỏ ra không hiểu gì về sứ mạng của Người và không nhận ra Người có một sứ mạng thần linh.

B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22):

Các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giêsu hai tội: “Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Trong lời biện hộ, Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).

C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27):

23. “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?”: Chúa Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ hai của các các kinh sư, những người này không thể nào bác bỏ những việc trừ quỷ của Đức Giêsu, vì thế họ giải thích rằng Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Qua ba câu 24-26, Đức Giêsu vạch rõ cho thấy lời giải thích này thật là phi lý.

24-26. Điểm cơ bản được minh họa theo ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không thể đứng vững được. Nếu câu 24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp: nếu Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra Đức Giêsu không thể nào thuộc về vương quốc của Xa-tan được, nhưng là đối thủ đáng gờm của Xa-tan.

27. “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”: Qua câu 27 này, Đức Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ nhất của các kinh sư khi họ tố cáo Người bị quỷ ám. Nếu Đức Giêsu bị quỷ ám thì Người phải dưới quyền thống trị của Xa-tan. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu là “người mạnh hơn Xa-tan”, Người đã đột nhập vào nhà của nó, đã trói nó và “cướp sách sạch nhà nó”, tức là những người được giải thoát khỏi bệnh tật và ma quỷ. Chính cuộc giải phóng này loan báo cuộc trất quyền của Xa-tan và Triều Đại Thiên Chúa ngự đến.

B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30):

28. “Tôi bảo thật anh em”: Lời dẫn nhập long trọng và đầy xác quyết này có giá trị như một lời cam đoan.

- “Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời nói xúc phạm đến một đặc quyền thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed 35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói xúc phạm đến Chúa Giêsu, vì Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và có quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm đến Đức Giêsu đều được tha.

29. “Nhưng ai phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”: Bản liệt kê các thứ tội mà loài người phạm đều có thể được tha nhằm làm nổi bật tội phạm đến Thánh Thành chẳng đời nào được tha. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Chúa Giêsu đang trả lời cho các kinh sư Do thái, theo họ Thần Khí không chỉ mặc khải sự thật của Thiên Chúa cho loài người nhưng còn khai lòng mở trí cho loài người hiểu biết sự thật ấy. Theo văn mạch, Thánh Mác-cô đã trình bày ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần ở cùng và hướng dẫn Người trên con đường thi hành sứ mạng. Như vậy, Thánh Thần hoạt động trong những việc chữa lành và trừ quỷ nơi Đức Giêsu để mặc khải cho loài người sự thật của Đức Giêsu và giúp con người hiểu biết sự thật ấy. Nhưng các kinh sư chẳng những không mở rộng lòng mình để tiếp nhận sự thật mà Thánh Thần mặc khải mà còn cố tình xuyên tạc sự thật ấy bằng cách gán những hành động của Thánh Thần ở nơi Đức Giêsu cho quyền lực của quỷ. Thật ra, “tội nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha thứ”, không có nghĩa rằng Thánh Thần không tha thứ, mà chính đương sự tự ý khép kín lòng mình trước sự thật và nhất quyết sống trong sự gian dối.

30. “Đó là vì họ đã nói ông ấy bị thần ô uế ám”: Những ai cho rằng những gì Đức Giêsu làm đều ở dưới quyền lực của ma quỷ, chịu sự tác động của ma quỷ, những người ấy không thể đón nhận ánh sáng của ân sủng, không muốn đón nhận ơn tha thứ mà Thánh Thần ban cho hết mọi người. Câu này mặc nhiên khẳng định rằng Chúa Thánh Thần chứ không Xa-tan là nguồn quyền năng của Đức Giêsu.

A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35):

31. “Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài cho gọi Người ra”: Nhóm người nầy tương tự như (hay ít ra một phần) “thân nhân của Người” được kể ra ở 3: 21. Từ “anh em” trong tiếng Híp-ri có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng như là anh em ruột, anh em họ, và cả bà con xa gần. Trong câu chuyện trước đó (3: 20-21), tác giả đã kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người mất trí” (Mc 3: 21). Chuyến đi đó họ “không bắt” (nghĩa là “không ngăn cản”) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà bây giờ, họ dẫn thêm Đức Ma-ri-a. Câu chuyện này cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Quả thật, Công Đồng Va-ti-can đã nói về cuộc hành trình đức tin của Đức Ma-ri-a.

32. “Đám đông đang ngồi chung quanh Người”: Đám đông được mô tả như những môn đệ vây quanh Người, chăm chú lắng nghe Lời Người.

- “Có kẻ nói với Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của Đức Giêsu đang đứng ở bên ngoài, còn đám đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn hơn những thân nhân của Người đang đứng ở bên ngoài.

33. “Ai là mẹ tôi?, ai là anh em tôi?”: Khi nghe tin mẹ và anh em từ làng quê Na-da-rét đến ở bên ngoài, chẳng những Đức Giêsu không ngừng công việc rao giảng, nhưng Người còn nêu lên một câu hỏi lạ lùng này.

34. “Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ chung quanh”: Đây là cách thức thánh Mác-cô nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra sau đó.

- “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”: Đức Giêsu đang chỉ những người ở bên trong, họ mới thật sự là mẹ và anh chị em của Người.

35. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: Lời nói trọng tâm nầy chứa đựng ít nhất một ghi nhận tiêu cực về gia đình huyết thống của Đức Giêsu. Những thân nhân huyết thống “ở bên ngoài”, những người đang đến đó không phải để nghe Lời Người nhưng để ngăn cản Người thi hành sứ vụ của Người vì cho rằng “Người đã mất trí” (3: 21), đối lập với những thân nhân đức tin “ở bên trong”, tức là tất cả những ai lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Mác-cô muốn làm nổi bật hai mẫu gia đình: gia đình huyết thống thì “ở bên ngoài”, còn gia đình đức tin thì “ở bên trong”.

Trong Cựu Uớc, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con người phải ước muốn ưu tiên hàng đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).

- “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý tưởng về một gia đình đức tin có tác dụng làm tương đối hóa những mối liên hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia đình của Đức Giêsu không căn cứ trên huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu, tức là những người môn đệ ở cùng nhà và chia sẻ đời sống với Đức Giêsu, không chỉ như những người “ở với Người và để Người sai đi” (x. 3: 14), nhưng còn như những thành viên của cùng một gia đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Ki-tô. Chúa Giêsu cho hiểu rằng những người đang quây quần chung quanh Người được nối kết với Người một cách sống động và thực sự: Người thuộc về họ và họ thuộc về Người. Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên căn bản huyết thống, những trên mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là những người liên kết với Đức Giêsu cách mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Qua những lời này, Chúa Giêsu cho hiểu rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của Người chứ không là mối liên hệ huyết thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột bậc không phải vì là “thân mẫu của Người” cho bằng đã “sống theo ý muốn của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của Đức Giêsu cũng không bị loại khỏi mối hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Đây quả là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người Rô-ma đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đau đớn. Những ai trở lại đạo thường bị buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Người. Như thế, trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Người: một số khước từ và một số khác đón nhận Người. “Bản thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc về Đức Ki-tô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.” (“Epphata”).

 

home Mục lục Lưu trữ