Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1356440

SỨ MẠNG BẤT TỪ NAN

SỨ MẠNG BẤT TỪ NAN

 

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Tin Mừng hôm nay là những dòng chữ cuối cùng của Phúc Âm theo thánh Mátthêu. Đồng thời cũng là những lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu, trước khi Người về trời. Người đã gửi gấm tín hữu cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dìu dắt, cùng ban lệnh truyền rất vắn gọn, súc tích và minh bạch.

1. Xác nhận quyền bính của Thiên Chúa

Trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu vào hoang địa cầu nguyện, chịu cám dỗ. Bấy giờ Satan, vốn kiêu ngạo, dụ dỗ Người bái thờ để được vinh hoa lợi lộc của các nước (Mt 4, 8-10). Satan có ý khoe mình là chủ tể thế gian. Điều mà lâu nay nhiều người vẫn thường lầm tưởng. Tuy nhiên cũng có phần nào đúng, vì Satan đích thị là hoàng đế sự dữ và tội lỗi.

Nay Chúa Giêsu công khai khẳng định chân lý bất di bất dịch:”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”(Mt 28, 18). Điều này đã được ông Đanien thị kiến từ thế kỷ VI trước Công nguyên: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các tiếng nói phải phụng sự Người.”(Đn 7, 14) Quyền tối thượng vẫn thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải thuộc về thế lực đen tối của Satan, cho dù ảnh hưởng của sự dữ hiện đang lan tràn như vũ bão khắp nơi.

2. Sứ mạng trao phó

Với quyền bính bao trùm cả trời đất, Chúa Giêsu trao sứ mạng cho các Tông đồ, cũng như cho từng tín hữu, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh  em.” (Mat 28, 19-20)

Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn trực tiếp mạc khải tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự kết hợp hài hòa, hầu con người noi theo gương hiệp nhất với nhau trong tình yêu.

3. Chúa đồng hành đến tận thế.

Tuy Chúa Giêsu về trời, nhưng Người vẫn cùng đồng hành thân mật với tín hữu qua Lời Chúa và Thánh Thể, cùng các phép Bí Tích nhiệm mầu. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mat 28, 20)

Hơn nữa, Người còn phó thác cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dưỡng nuôi tín hữu từng ngày từng giờ, qua những đặc sủng và hồng ân. Như thế, Người xa mặt, mà chẳng hề cách lòng. Mãi mãi vẫn là Đấng Emmanuel = Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn nhớ mình đã được thánh hiến qua Bí tích Rửa Tội, đã trở nên con cái Chúa, thì sống sao hiếu thảo và đẹp lòng với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria Mân Côi, xin dạy con biết nhận ra và thực hành Ơn Gọi Sai Đi, bằng chính cuộc sống hằng ngày, để đem niềm tin đến cho mọi người. Amen.

 

20.Thiên Chúa là tình yêu

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

I. Dẫn vào Thánh l

Anh chị em thân mến

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mau nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.

Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.

II. Gợi ý sám hối

Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.

Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.

Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Đnl 4, 32-34. 39-40)

Đây là phần kết diễn từ thứ nhất "của Môsê" nói với dân Do Thái trước khi họ vào Đất Hứa.

Trước tiên Môsê lưu ý dân về sự uy quyền và lòng yêu thương của Thiên Chúa mà họ đã chọn tôn thờ: "Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ giữa hỏa hào như các ngươi được nghe?... Có Thiên Chúa nào tìm lấy cho mình một nước giữa các nước khác bằng những dấu lạ, điềm thiêng... như mọi sự Yavê Thiên Chúa các ngươi đã làm cho các ngươi?..."

Rồi Môsê khuyên dân hãy trung thành tuân giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền vừa yêu thương ấy.

2. Đáp ca (Tv 32)

Tv này được soạn sau thời lưu đày, ca tụng Thiên Chúa là Đấng chủ tể của vũ trụ và lịch sử loài người, hằng yêu thương những kẻ kính sợ Ngài.

3. Tin Mừng (Mt 28, 16-20)

Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc trong thánh lễ hôm nay vì câu 19 "Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".

Trong lần gặp gỡ cuối cùng với các môn đệ trước khi về trời, Đức Giêsu đã long trọng sai họ đi truyền giáo khắp nơi:

Kẻ sai họ đi là Đức Giêsu phục sinh, Đấng đã "được trao toàn quyền trên trời dưới đất". Ngài còn hứa sẽ "ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".

Mục tiêu truyền giáo là làm phép rửa cho muôn dân "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" và dạy người ta tuân giữ những lệnh truyền của Đức Giêsu.

4. Bài đọc II (Rm 8, 14-17)

Đoạn thư này cho thấy vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống kitô hữu:

Kitô hữu là người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn

Nhờ đó họ có thể sống thân phận làm Con như Đức Giêsu

Họ có thể gọi Thiên Chúa là Cha "Abba"

IV. Gợi ý giảng

* 1. "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"

Đôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này thật quý giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khac đi rất nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.

Đức Giêsu bảo các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngai còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.

Ý thức có Chúa ở cùng chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng.

Chúa luôn ờ cùng chúng ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.

Vì thế, chúng ta cần bồi dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. (Viết theo Flor McCarthy)

* 2. Tin tưởng vào Chúa

Lời cầu nguyện dưới đây ghi trên một mảnh giấy được tìm thấy trong thi thể một người lính trẻ tử trận trong thế chiến thứ I:

"Chúa ơi, trước đây con chưa bao giờ thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ từng nói với con rằng Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ. Nhưng đêm hôm qua, con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy vẻ đẹp của những vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó con biết rằng họ đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài và con gặp nhau. Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã của con. Thật lạ lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được Ngài. Trước đây còn đã làm gì? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc rằng con rất hạnh phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến. Sắp có một trận đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà Ngài. Con đang khóc! Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc như thế. Bây giờ con phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết nữa."

Tiếc là người lính trẻ này biết Chúa quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình tách lìa khỏi Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng ta tách lìa khỏi Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người như thế nào. Còn bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người thân thiết đến mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là con cái Ngài. Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong Nước Trời. (Viết theo Flor McCarthy)

* 3. "Dạy họ tuan giữ mọi điều Thầy đã truyền"

Những số liệu về kết quả truyền giáo khiến chúng ta rất bi quan. Với tất cả mọi cố gắng và mọi phương tiện, mỗi năm có được khoảng nửa triệu người lớn gia nhập đạo Công giáo; nếu cộng thêm vào đó số trẻ em rửa tội nhờ cha mẹ là người công giáo khoảng 3 triệu rưỡi nữa, thì tổng cộng mỗi năm có thêm chừng 4 triệu người rửa tội. Trong khi đó chỉ ở nước Trung Hoa thôi mỗi năm có thêm 12 triệu dân, nghĩa là số dân Trung Hoa sinh ra trong một năm đã gấp 3 lần số người công giáo tăng thêm trên toàn thế giới. Năm 1960 số người công giáo toàn thế giới là 500 triệu, dân số Trung Hoa khoảng một tỉ rưởi, nghĩa là gấp 3 lần người công giáo trên toàn thế giới, năm 2000, số giáo dân hoàn cầu khoảng 600 triệu, còn dân Trung Hoa khoảng 2 tỉ rưỡi, nghĩa là giáo dân toàn cầu chỉ còn bằng 1/5 số dân của chỉ riêng một nước Trung Hoa. Đó là ta đem tổng số giáo dân của toàn thế giới so sánh với dân số của chỉ một nước Trung Hoa thôi, chứ nếu so với tổng số nhân loại thì còn thể thảm hơn nữa. Cứ cái đà này thì giáo dân hiện này đã là một thiểu số trong nhân loại, mà càng về sau thì cái thiểu số đó càng nhỏ đi, tỉ lệ càng nhỏ đi hơn nữa. Như thế, có thể nói việc truyền giáo là một thất bại!

Nhưng đó là chúng ta tính trên những con số người được rửa tội, những con số rất bi quan. Còn nếu chúng ta nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì lại lạc quan. Chẳng hạn như mỗi khi một nơi nào đó trên thế giới gặp thiên tai như động đất, lũ lụt v. v. thì rất nhiều nước trên thế giới không phân biệt lập trương chính trị hay ý thức hệ lập tức gởi tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo và nhân viên đến cứu trợ. Tinh thần bác ái xã hội của nhân loại càng ngày càng lớn thêm. Nhân loại cũng càng ngày càng biết tôn trọng phẩm giá con người hơn, càng ngày càng tôn trọng nhân phẩm của người phụ nữ hơn, càng ngày càng tôn trọng trẻ con hơn, càng ngày tôn trọng nhân quyền hơn... Do đâu mà có những sự tiến bộ đó? Chắc hẳn là do ảnh hưởng cua tinh thần Tin mừng Kitô giáo. Nói như vậy không phải là dành công cho Kitô giáo một cách hồ đồ, mà có bằng chứng rõ ràng: trước khi Kitô giáo được truyền bá loài người đã sống như thế nào? Khi đó, đa thê là tình trang đương nhiên: Một người đàn ông có quyền có nhiều vợ và muốn bỏ vợ lúc nào tuỳ ý. Khi đó người cha cũng có toàn quyền sinh sát trên con cái: sinh con ra nếu nó không phải là con trai, hay nếu nó tàn tật thì người cha có quyền giết chết nó đi không ai coi là tội. Khi đó chế độ nô lệ cũng là tình trạng đương nhiên: Người giàu có quyền mua những người nghèo về làm nô lệ phục dịch mình, người nô lệ ấy nếu còn mạnh khoẻ thì còn được nuôi dưỡng, còn nếu đã già yếu hay bệnh tật thì chủ có quyền giết đi hay đem bán cho người khác, người nô lệ được xem cũng như con trân con bò... Thế rồi Kitô giáo xuất hiện, giáo hội mở trường dạy học cho giới bình dân, Giáo Hội rao giảng vợ chồng nhất phu nhất phụ, GH lên án tục giết trẻ con, Giáo Hội vận động huỷ bỏ chế độ nô lệ, GH dạy những người chủ phải yêu thương các tôi tớ, GH dạy người giàu phải kính trọng những người nghèo... Vì tất cả đều là người, tất cả đều là con của Chúa và là anh em bình đẳng với nhau. Và dần dần, chế độ đa thê, chế độ nô lệ, tục lệ giết trẻ em biến mất... Dần dần người ta đề cao hơn tình huynh đệ, tình liên đới xã hội v. v... Những giá trị tinh thần của Kitô giáo ấy, ngày nay người ta coi là đương nhiên, kể cả những người không phải là Kitô giáo cũng đương nhiên sống theo những giá trị tinh thần ấy. Người hữu thần và người vô than đều coi sống như thế là đúng, là phải, là đạo đức.

Những điều kể ra nảy giờ có ý nghĩa gì đối với ngay lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ"? Những điều trình bày phía trên muốn cho thấy rằng: nếu quan niệm truyền giáo chỉ là rửa tội cho người ta gia nhập cơ cấu hữu hình của GH thì truyền giáo quả là một thất bại lớn. Nhưng nếu quan niệm truyền giáo chính là truyền bá và làm thấm nhuần những giá trị Tin mừng vào môi trường mình sống thì truyền giáo vẫn còn là một thành công. Cả hai cách truyền giáo đều cần và bổ sung cho nhau. Nghĩa là GH ngày nay vẫn còn phải tiếp tục đón nhận những ai đến xin lãnh nhận bí tích Rửa tội và gia nhập vào cơ cấu hữu hình của GH, nhưng GH không nên tự mãn với việc Rửa tội, mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần Tin mừng thấm nhiễm vào thế giới. Thiết nghĩ, ngày nay phải nhấn mạnh hơn vào cách thứ 2 này, bởi vì:

Việc dạy giáo lý, việc Rửa tội hầu như chỉ thích hợp hơn cho các linh mục tu sĩ. Vậy thì giáo dân khỏi phải truyền giáo ư? Không, giáo dân vẫn truyền giáo được bằng nếp sống tỏa chiếu tinh thần Tin mừng cho mọi người chung quanh mình.

Rồi có những hoàn cảnh không tiện nói về đạo, về Chúa, về Giáo Hội. Dù không tiện như thế nhưng ta vẫn có thể truyền giáo được bằng nếp sống của ta.

Và cũng có thể có những người không chịu Phép Rửa tôi được, không đi đến nhà thờ được, nhưng họ vẫn sống theo những giá trị tinh thần tốt đẹp của Tin mừng. Làm sao cho có được những người như thế cũng là một điều đáng mừng rồi. Thần học gia Karl Rahner đã gọi những người đó là những "Kitô hữu ẩn danh", nghĩa là tuy họ không có danh hiệu là Kitô hữu, nhưng thực chất họ sống y như một người Kitô hữu.

Có lẽ ngay từ ngày xưa Đức Giêsu đã nghĩ tới cách truyền giáo đó và đề cao các đó khi Ngài giảng những dụ ngôn về Nước Trời: Nước Trời giống như men vùi trong thúng bột. Tuy men âm thầm không ai thấy nhưng nó dần dần làm cho cả thúng bột dậy men. Nước Trời giống như một cái hat gieo xuống lòng đất, cho dù chủ có biết hay không, cho dù chủ đất thức hay ngủ, hạt giống ấy cứ ngày đêm đâm chồi mọc lên và cuối cùng thành một cây to lớn.

Công đồng Vaticanô để kêu gọi "Truyền giáo là bổn phận của mọi Kitô hữu". Với hoàn cảnh, khả năng và phương tiện của một người giáo dân, chúng ta có thể đáp lời kêu gọi của công đồng để truyền giáo bằng cách sống như một hạt men như một hạt giống giữa những người khác, nghĩa là bằng cuộc sống của mình, Chúng ta cho người ta thấy được sự tốt đẹp của tinh thần Tin mừng và người ta ham thích sống theo đó, dù ý thức hay vô ý thức cũng tốt. Cụ thể, chúng ta hãy sống như những lời kinh Hoà Bình mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc:

Đem yêu thương vào nơi oán thù.

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục.

Đem an hoà vào nơi tranh chấp.

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Đem niềm tin vào nơi nghi ngờ.

Đem cậy trông vào nơi tuyệt vọng.

Đem ánh sáng vào chốn tối tăm.

Đem niềm vui vào nơi sầu thảm.

* 4. Thiên Chúa là Tình yêu

Thánh Gioan đã định nghĩa "Thiên Chúa là Tình Yêu".

Thiên Chúa là Tình yêu nghĩa là Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi Tình yêu.

Thiên Chúa là Tình yêu có nghĩa là không có nơi nào Tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng Tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho Tình yêu loài người.

Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?

1/ Đặc điểm thứ nhất là Tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.

TC không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng TC có Ba Ngôi yêu thương nhau.

Điều đó cho thấy Yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.

Nhưng tại sao yeu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát... nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.

2/ Đặc điểm thứ hai của Tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.

Chỉ có một TC nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một TC.

Có câu thơ "Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2".

Áp dụng vào Tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà một", hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.

Ý nghĩa đó là: TC có Ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng Thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà 3 Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là một TC.

Điều đó có ý nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hoà hợp với nhau.

Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ Tình yêu của TC Ba Ngôi:

Yêu thương là cho đi.

Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.

Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hoà hợp với nhau.

* 5. Tình yêu hiệp nhất

Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:

- Ông có cần biên nhận không?

- Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.

- Ngài tin vào Thiên Chúa ư?

- Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?

- Tôi thì không, thưa ngài.

- A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!

******

Người ta thường nói: "Tin đạo chứ đừng tin người có đạo". Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Đã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mot mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.

Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: the hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.

Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: "Con là Con Ta yêu dấu" (Mc. 1, 11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: "Chúa Cha trong tiếng noi, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói".

Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên cua Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì "Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1Ga. 4, 16).

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.

*******

Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản tính của mình trong bản tính của Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu sáng tạo cứu độ và thánh hóa chúng ta; một tình yêu muốn hiệp thông với tất cả mọi người. Chúng ta hãy dâng lên Ba Ngôi lời cầu xin của chúng ta:

1. Hiệp thông được phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, và Hội thánh phải qui hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội thánh luôn là dấu chỉ và dụng cụ của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.

2. Thế giới và vũ trụ cũng phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà cầm quyền cũng như mọi dân tộc / biết nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và là cùng đích của mọi người mọi vật.

3. Trong xã hội còn đầy dẫy những chia rẽ, bè phái, kỳ thị, hận thù, giết hại nhau / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người sớm nhận biết rằng / người trong bốn bể đều là anh em con Một Chúa trên trời.

4. Hội thánh có sứ vụ đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn sống hiệp thông với Chúa và với nhau / để có thể đem mọi người chung quanh về hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chủ tế: Lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Ba Ngôi chí thánh luôn hiệp thông với nhau; xin cho mỗi người chúng con biết dẹp bỏ mọi chia sẻ, kỳ thị, hận thù; để chúng con luôn sống hiệp thông với nhau, như anh em trong một gia đình Thiên Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh L

Chủ tế chú ý nhấn manh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.

Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Đức Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.

VII. Giải tán

Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thanh Thần".

 

21.Lễ Chúa Ba Ngôi

(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

CHÚA BA NGÔI

“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi môi trường đa thần giáo chung quanh.

Tuy nhiên, các bản văn Cựu Ước để lộ ra vài tiên cảm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: tầm quan trọng được ban cho Thần Khí Thiên Chúa, cũng như ngôi vị hóa dần dần của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan, nhất là trong những tác phẩm muộn thời.

Ngôi Lời Nhập Thể mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, cũng như hiệp nhất chính Ngài với hai Ngôi Vị nầy trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn trào liên tục, một sự đổi trao thường hằng. Vì thế, bản tính của Thiên Chúa là sự trao ban không ngừng nghỉ. Chính nhờ tình yêu tự hiến của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần mà nhân loại được dự phần  vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Như vậy, mặc khải Một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị là một sự kiện đặc biệt của Ki-tô giáo, phân biệt với hai tôn giáo độc thần khác: Do thái giáo và Hồi giáo. Vào ngày lễ Chúa Ba Ngôi nầy, ba bài đọc lần lượt nêu bật Ba Ngôi Thiên Chúa.

Đnl 4: 32-34, 39-40

Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, ca ngợi sự cao vời khôn ví của Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất, siêu việt và hoàn vũ. Đây là dung mạo của Chúa Cha.

Rm 8: 14-17

Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Rô-ma, trong đó thánh Phao-lô cho thấy tác nhân biến đổi của Chúa Thánh Thần trên cuộc sống của người Ki-tô hữu.

Mt 28: 16-20

Bài Đọc III là phần kết thúc Tin Mừng Mát-thêu, trong đó Chúa Con Phục Sinh công bố Ngài là Chúa Tể hoàn vũ, căn nguyên ơn cứu độ cho muôn dân nước và thường hằng phù trợ Giáo Hội của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 32-40)

Bài Đọc I được trích từ sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi là sách Đệ Nhị Luật, hay đơn giản là sách “Luật Thứ Hai” hay “Thứ Luật” (bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn). Tuy nhiên, sách không lập lại Luật được diễn tả trong các sách trước đó (sách Xuất Hành, sách Dân Số, sách Lê-vi); sách Đệ Nhị Luật đánh dấu những phát triển mới để thích ứng luật vào hoàn cảnh của một dân đang định cư và thậm chí đã an cư lập nghiệp có nguy cơ quên ơn gọi của mình.

“Luật Thứ Hai” này, được hư cấu trên môi miệng của ông Mô-sê, muốn nói lên rằng nó chỉ là khai triển luật của ông Mô-sê. Ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa, nhưng thật ra đây là những thế hệ sau nầy được mời gọi trung thành với Đức Chúa của mình.

Sách Đệ Nhị Luật có chủ ý nhấn mạnh trên những nền tảng lịch sử và thần học của Luật. Đoạn trích mà chúng ta đọc hôm nay thật có ý nghĩa về phương diện nầy.

1. Nền tảng lịch sử của Luật (4: 32-34):

Bản văn này rất nổi tiếng, được soạn thảo theo văn phong đầy cảm xúc, ca ngợi việc Đức Chúa chọn dân Ít-ra-en với cung giọng nồng nàn. Việc tuyển chọn nầy đem lại ý nghĩa cho những đòi hỏi của Luật.

Sự kiện vài ngàn người thoát khỏi kiếp nô lệ bên đất Ai-cập xem ra chẳng có nghĩa lý gì trong lịch sử chung của thế giới, nhưng thật ra đây là một biến cố độc nhất vô nhị: đây là lần đầu tiên Thiên Chúa minh nhiên can thiệp vào lịch sử thánh kể từ ngày khai thiên lập địa cho đến nay, vì Thiên Chúa đã chọn cho mình một dân giữa muôn dân: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời nầy đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?” (Đnl 4: 32). Lúc đó, bằng những ám chỉ, tác giả gợi lên những diễn biến của lịch sử đầy kinh ngạc nầy. Trước hết, tác giả nhắc nhớ biến cố chủ chốt: Thiên Chúa đã tỏ mình ra trên núi Xi-nai; mọi người đều được nghe tiếng Ngài mà không phải chết: “Có dân nào được nghe tiếng tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không?” (Đnl 4: 33).

Chúng ta lưu ý trong diễn từ nầy, ông Mô-sê không nói lên kinh nghiệm của riêng mình, nhưng kinh nghiệm của dân chúng về Thiên Chúa. Quả thật, đó là một viễn cảnh rất hiển nhiên trong sách Đệ Nhị Luật: dân Ít-ra-en được xem như một cá thể, một chủ thể duy nhất, đồng nhất với chính mình qua muôn thế hệ.

Tiếp đó, người kể chuyện còn đi ngược dòng thời gian lên đến cuộc ra đi khỏi đất Ai-cập: “Hoặc có vị thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dùng cách tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đỡm, như Đức Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4: 34). Chúng ta có thể nói Thiên Chúa đã “bứng” dân Do thái khỏi đất Ai-cập để làm thành dân riêng của Ngài.

- “đã dùng bao thử thách” ám chỉ đến những gian truân vất vả trong sa mạc: đói khát, mệt mõi, lang bạc rày đây mai đó, vân vân

- “dấu lạ, điềm thiêng”: nào là nước phun vọt ra từ tảng đá, bánh man-na rơi xuống từ trời, chim cút rơi trên mặt đất, vân vân.

- “chinh chiến”: tác giả dành một chỗ lớn cho những cuộc chiến; ông vừa mới kể dong dài cuộc chinh phục đầy gian khổ ở bên kia sông Gio-đan; ông bày tỏ lý tưởng quốc gia chinh chiến, mà ông biết làm cho nó đồng hiện diện với lời dạy về một tôn giáo nội tâm.

- “đã dùng cánh tay mạnh mẽ uy quyền”: đây là kiểu nói “như nhân”, kiểu nói nầy diễn tả vừa tính chất siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng hoàn toàn khác, vừa tính cách rất mực gần gũi của Ngài: Đấng làm cho mình trở nên gần gũi với nhân loại hơn, trở nên sống động với dân Ngài hơn. Đây cũng là cách thức nhấn mạnh sự bất lực và tính bất tất của các thần linh ngoại giáo.

Sau cùng, tác giả ngược dòng thời gian xa hơn nữa khi ám chỉ đến những chiến công gây kinh hoàng mà Thiên Chúa đã làm tại Ai-cập, nghĩa là những tai ương giáng xuống trên dân Ai-cập để buộc Pha-ra-ô phải để cho dân Do thái ra đi.

Sau khi Thiên Chúa đã bày tỏ biết bao ân cần của Ngài đối với dân, làm thế nào dân Chúa chọn có thể lại bất trung với Ngài được chứ?

2. Nền tảng thần học của Lề Luật (4: 39-40).

“Vậy, hôm nay đây, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều nầy” (4: 39a). Những lời nầy hình thành nên lời khuyên đạo lý đầu tiên tiêu biểu trong toàn bộ sách này. Tôn giáo mà sách Đệ Nhị Luật dạy không quy chiếu đến việc tuân giữ Lề Luật chi li, nhưng kêu gọi đến những tư thế sẵn sàng nội tâm và tình yêu đối với Thiên Chúa.

Vị Thiên Chúa nầy, hiện diện trong lịch sử, chính là Đấng Sáng Tạo, Ngài ngự trị “trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có Thiên Chúa nào khác” (4: 39b).

Lời nhắc nhở “Độc Thần giáo tuyệt đối” chắc chắn là cần thiết vào lúc nầy. Một phần sách Đệ Nhị Luật xem ra đã được các thầy Lê-vi thuộc vương quốc miền Bắc soạn thảo kể từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, vào thời kỳ bội giáo của vương quốc nầy; nhưng rồi vào thế kỷ tiếp sau đó, vương quốc miền Nam, đến phiên mình, phạm tội thờ ngẫu tượng. Lời khẳng định về Thiên Chúa chân thật, duy nhất và siêu việt, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đòi hỏi phải vâng phục và yêu mến Ngài, chính là lời nhắc nhở thần học căn bản, đối mặt với những việc cúng tế đa thần giáo của dân Ca-na-an.

 “Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em” (4: 40). Từ “hôm nay” của sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh giá trị thường hằng của những huấn lệnh Thiên Chúa. Tuân giữ chúng là nguồn phúc lộc ở dưới thế nầy: “hạnh phúc và được sống lâu”. Vào thời nầy, trong Kinh Thánh chưa có những viễn cảnh về những ân thưởng bên kia nấm mồ.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 14-17)

Thánh Phao-lô viết thư nầy từ Cô-rin-tô, vào mùa xuân 57-58, để chuẩn bị cho cuộc hành trình đến Rô-ma. Tuy nhiên, dự định đã không thành vì thánh nhân bị bắt vào mùa xuân năm sau ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong cảnh giam cầm mà thánh nhân bị giải đến thủ đô của Đế Quốc vào đầu năm 61.

Trong những thư của thánh Phao-lô, thư gởi tín hữu Rô-ma là thư dài nhất và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Sau bức tranh ảm đạm về việc nhân loại bị giam hãm trong tội lỗi, thánh nhân phác họa một bức tranh đầy an ủi về nhân loại được tái sinh và sống theo Thần Khí. Đây là chủ đề của chương 8 nầy.

1. Ơn nghĩa tử:

Thánh nhân ngỏ lời với những người chịu phép Rửa, nhờ phép Rửa, họ trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh nhân khích lệ họ sống cho xứng đáng với phẩm chất nầy và mời gọi họ sống cuộc sống nội tâm, một cuộc sống cho phép họ lắng nghe Thần Khí, vì Thần Khí sở hữu quyền năng biến đổi.

Như vậy, Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử chứ không trở thành nô lệ. Vào thời đại nầy, sự sánh ví nầy rất hùng hồn. Người nô lệ là người không có quyền lợi gì, không sở hữu bất cứ điều gì, sống trong sợ hãi vào ông chủ của mình. Chỉ có người con mới có thể ngỏ lời với cha mình “Cha ơi!” trọn một tấm lòng yêu thương và tin tưởng.

2. Đồng thừa tự với Đức Ki tô.

Người con chẳng những chắc chắn hưởng được lòng yêu thương trìu mến của cha mình, mà còn có quyền thừa kế nữa. Người Ki-tô hữu là con cái của Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, Con Một của Thiên Chúa; và với Đức Ki-tô, họ trở nên đồng thừa tự những thiện hảo của Nước Trời. Một viễn cảnh như thế trái với pháp lý Do thái, nhưng hợp với luật Hy-lạp và Rô-ma, người con nuôi được hưởng quyền thừa kế như người con ruột. Như vậy, thánh nhân nhấn mạnh ơn ban nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần.

Nhưng nếu ơn nghĩa tử nầy làm cho người Ki tô hữu nên anh chị em của Đức Ki-tô, thì nó lôi kéo họ vào trong những gian truân và cái chết của Ngài, trước khi cho họ được dự phần vào vinh quang của Ngài. Thánh nhân không làm dịu đi sứ điệp của mình.

TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)

Chính trên hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ nầy mà sách Tin Mừng Mát-thêu kết thúc: trên một ngọn núi thuộc miền Ga-li-lê, Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho nhóm Mười Một, họ phủ phục dưới chân Ngài. Ngài mặc khải quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài và truyền lệnh cho họ loan báo Tin Mừng cho khắp thiên hạ, bằng cách đảm bảo với họ ơn phù trợ của Ngài.

Thánh Mát-thêu không tường thuật bất cứ lần hiện ra nào của Đức Giê-su với nhóm Mười Một sau khi Ngài sống lại ngoại trừ lần hiện ra nầy, bởi vì thánh ký tập trung chứng từ về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những lời căn dặn sau cùng của Ngài vào cuộc gặp gỡ duy nhất nầy. Như vậy, biến cố nầy mang lấy một chiều kích đặc biệt.

1. Miền Ga-li-lê.

Sự kiện xảy ra ở miền Ga-li-lê. Chính ở đó mà Đức Giê-su đã ba lần hẹn gặp các Tông Đồ của Ngài. Lần thứ nhất, Ngài đã báo trước việc thánh Phê-rô sẽ chối Ngài và các ông sẽ vấp ngã vì Ngài: “Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (26: 32). Lần thứ hai vào buổi sáng Phục Sinh, sứ thần đã nói với các người phụ nữ: “Các bà…mau về nói với môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (28: 7). Lần thứ ba, Đức Giê-su đã lập lại cùng một sứ điệp: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (28: 10). Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê nầy, trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Thánh Mát-thêu không thích thành đô Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, vì thế thánh ký dành cho miền Ga-li-lê sứ điệp tối thượng của Đức Giê-su.

Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, ngọn núi nào xem ra chẳng quan trọng gì: ngọn núi chỉ là biểu tượng. Không phải trên một ngọn núi (5: 1) Chúa Giê-su khai mạc Nước Trời bắt đầu với các Mối Phúc sao? Không phải cũng trên một ngọn núi (17: 1) Chúa Giê-su hiển dung cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài sao?

2. Họ bái lạy.

“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (28: 17). Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song đối với những hoạt cảnh mà ở đó thánh Mác-cô và thánh Lu-ca mô tả những hoài nghi như thế: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em ngờ vực…” (Lc 24: 36). Điều này cho thấy các ông không phải là những người nhẹ dạ cả tin.

Đức Giê-su tiến lại gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi đã trấn an họ, Ngài cho họ dự phần vào vinh quang của Ngài và trao phó cho họ sứ mạng tối hậu của Ngài.

3. “Thầy đã được trao quyền trên trời dưới đất”.

Chúa Giê-su công bố quyền thống trị hoàn vũ của Ngài. Quyền thống trị hoàn vũ nầy đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo về một nhân vật mầu nhiệm với tược vị “Con Người” rồi: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).

4. “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”:

Tiếp đó, Đức Giê-su trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ , làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (28: 19). Đây là một trong những ghi nhận về Thiên Chúa Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu. Quả thật, phép rửa mà Đức Giê-su đã lãnh nhận trong dòng sông Gio-đan trước kia đã bày tỏ Ba Ngôi Thiên Chúa rồi: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 16-17).

Chính ở dưới dấu hiệu Ba Ngôi Thiên Chúa nầy mà phép Rửa Ki-tô giáo được ban cho. Công thức mà thánh Mát-thêu trích dẫn là công thức thức Phép Rửa được Giáo Hội dùng rất sớm. Trong chứng liệu rất cổ xưa thuộc cuối thế kỷ thứ nhất, sách “Didakhé” (hay “Đạo lý của Mười Hai Tông Đồ”) sưu tập giáo lý và phụng vụ, trong đó chúng ta gặp thấy những hàng nầy: “Khi phép rửa bởi việc dìm mình vào trong nước không thể, phải rửa trong nước thông thường bằng cách đổ nước ba lần trên đầu nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Didakhé 7, 3). Công thức Ba Ngôi của thánh Mát-thêu càng quý hơn nữa nếu chúng ta so sánh với công thức của thánh Phao-lô: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 3; Gl 3: 27), hoặc “Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí” (1Cr 12: 13), và với công thức của sách Công Vụ: “Họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su” (Cv 8: 16; 19: 5).

5. “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”

Chúng ta nên lưu ý rằng trong diễn từ nầy Đức Giê-su nói theo cùng uy quyền và hầu như với cùng những ngôn từ như Đức Chúa của sách Đệ Nhị Luật mà ông Mô-sê nhắc lại sự cao vời khôn ví của Ngài và truyền đạt sứ điệp của Ngài: “Trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Thiên Chúa nào khác. Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành…”.

6. “Còn Thầy, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Ở đây, Chúa Giê-su không nói như một lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em”, nhưng như một lời khẳng định: “Thầy ở cùng anh em”. Đây là một lời khẳng định tuyệt vời nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử mà dân Ít-ra-en đã được hình thành và được phù trợ. Đó cũng lời khẳng định hình thành nên dân Thiên Chúa mới, tức Giáo Hội, được đảm bảo bởi sự phù trợ của Chúa Ki-tô mọi ngày cho đến tận thế.

Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng, thánh ký, rất nhạy bén trước chiều kích phổ quát của ơn cứu độ, hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh rộng lớn về cuộc hoán cải của muôn dân.

 

home Mục lục Lưu trữ