Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1362706

SỨ MẠNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ

SỨ MẠNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ: ANH EM LÀ MUỐI CHO ĐỜI ANH EM LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Sứ mạng của các môn đệ.

Trong các mối phúc Đức Giêsu đã công bố hạnh phúc cho những người đáp lại lời mời gọi của Ngài và bắt đầu theo Ngài: đó là các môn đệ. Hạnh phúc được ban cho họ từ bây giờ như một quà tặng, ngay trong những hoàn cảnh cụ thể và đôi khi ngay trong những hoàn canh đau khổ tột cùng của đời sống “Nước Trời và của họ”; một ngày kia hạnh phúc ấy sẽ triển nở trong ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của anh em sẽ lớn lao trên trời”.

Tiếp theo lời mở đầu của bài giảng trên núi, Đức Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ Ngài: anh em là muối cho đời... anh em là ánh sáng thế gian. Chúng ta đã bao giờ có một định nghĩa hay hơn định nghĩa này về Giáo hội không? giáo Hội không phải là một cái bình xoay trong đó là những người được cứu độ (ngoài Giáo Hội không có sự cứu độ), nhưng vì ánh sáng trên núi cao chiếu tỏ ý nghĩa cuộc sống và cắm nọc tiêu chỉ đường cho những ai sống trong bóng tối (Is 60), ánh sáng này qui chiếu về nguồn mà nhờ đó nó tỏa sáng! (Cahier Evangile, số 9, tr. 11) trong thế giới sê-mít nơi Đức Giêsu công bố giáo huấn này và nơi Thánh Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, muối là một thực tại hằng ngày chứa rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Được dùng trong việc chuẩn bị bữa ăn để cho các món ăn thêm hương vị, muối đã trở nên biểu tượng của tất cả những gì làm cho hiện hữu có hương vị và ý nghĩa, đàng khác một điều đáng chú ý là trong tiếng Latinh, “nếm” (sapere) và “khôn ngoan” (sapientia) có cùng một gốc và trong tiếng Hy lạp và tiếng Do thái, có cùng một động từ vừa có nghĩa “lạt đi” “trở nên lạt lẽo” vừa có nghĩa trở nên vô nghĩa”.

Được dùng trong việc bảo quản thức ăn, muối đã trở nên biểu tượng của sự vĩnh hằng và được sử dụng trong những nghi lễ giao ước - người ta nói Giao ước của muối” (2 Sb 13, 5 và Lv 2, 13) và trong những nghi lễ đón tiếp và cho khách ở trọ. Muối không được lạt đi! Cl. Tassin chú giải: các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ”. (Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62).

2. và “ánh sáng thế gian”.

Để giúp các môn đệ hiểu rõ hơn sự lớn lao và những đòi hỏi của sứ mạng Ngài trao, Đức Giêsu dùng hai hình ảnh.

Trước hết, Ngài nói đến một “thành xây trên núi” có lẽ cảnh trí của thành Safed đã gợi ý cho Ngài. Thành này nằm trên mũi đá phía đông-bắc rặng Haute-Galiê nên ban ngày, những ngôi nhà mầu trắng phản chiếu ánh sáng mặt trời và ban đêm nó tỏa sáng. “Trở nên ánh sáng thế gian”, đó là lời các ngôn sứ loan báo về tương lai của Giêrusalem vào thời Đấng Thiên sai: thành này sẽ là thành phố ánh sáng trên núi mà mọi dân tộc sẽ đi về đó. Là ánh sáng cho thế gian” là sứ mạng được trao cho cộng đoàn các môn đệ. Rồi Ngài nói với các môn đệ người ta đốt đèn không phải để giấu nó “dưới đáy thùng” -dùng để xếp đồ trong những ngôi nhà xứ Palestine- nhưng là để trên “giá đèn” hầu soi cho tất cả mọi người trong nhà. Cộng đoàn các môn đệ mà Ngài sai đến trong thế gian cũng phải như vậy.

Cl.Tassin kết luận: Giáo Hội sẽ thi hành sứ mạng là muối cho đời và là ánh sáng thế gian, bởi sự chôn vùi và sự tỏa sáng chứ không phải là tham vọng chinh phục về địa dư (Sách đã dẫn)

BÀI ĐỌC THÊM

1. Muối và ánh sáng: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần” Desclée de Brouwer, 1 994, tr.48-49)

“Anh em là muối cho đời”. Để có ích, muối không được mất vị của nó: nó chỉ là gia vị! Chính nó không phải là thức ăn, ít ra thường là như vậy: nó giúp cho thúc ăn có hương vị. Trở nên nguồn hương vị thơm ngon, đó là nét độc đáo của chúng ta, những người theo Đúc Kitô, trong thế giới chúng ta đang sống. Nét độc đáo này giúp chúng ta trở nên hữu ích cho đời nhờ sự khác biệt của nó. Chúng ta không được đánh mắt sự khác biệt này: Nếu muối: lạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được? Sự khác biệt của chúng ta không ở nơi bản chất riêng của mình hay nơi những tính tốt chúng ta có, chúng ta không tự hào là những người tốt nhất hoặc muốn dạy người khác. Chúng ta cũng được nhào nặn bởi cùng một-thứ bột như tắt cả mọi người. Chúng ta cũng gặp những thuận lợi và những chướng ngại trong chúng ta và chung quanh chúng ta như mọi người. Nhưng chúng ta ra lạt khi không còn liên kết với Đức Kitô, khi không còn qui chiếu về Ngài, khi Ngài không còn là men cho đời sống chúng ta. Lúc đó cuộc sống chúng ta và thế giới chúng ta sống sẽ thiếu hương vị, bởi vì sứ mạng của chúng ta là làm cho thế giới này biết thưởng thức Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài! Hình ảnh ánh sáng nối tiếp và làm rõ hình ảnh về muốí: Anh em là ánh sáng thế gian ánh sáng là để nhìn, chúng tự nó không đủ. Nó vô dụng nếu nó không soi cho thấy gì hết. Đức Giêsu đặt các môn đệ của Ngài trong thế gian ta qui chiếu với thế gian. Ngài không kêu gọi họ đóng khép kín, tách rời người khác. Thánh Gioan cũng nói như vậy nhưng diễn tả cách khác: Con sai họ đến trong thế gian (Ga17, 18). Chính vì vậy, các Kitô hữu sống trong thế gian và trong những hoàn cảnh như mọi người không những là điều bình thường mà còn cần thiết nữa…không sống trong một thế giới khác! Chúng ta phải thực hiện những công việc của ánh sáng, nghĩa là những hành vi tốt hay những việc làm tốt được ánh sáng Thiên Chúa soi chiếu để trở thành những việc làm của chính Thiên Chúa. Nói vậy không có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi chúng ta tin rằng mình là người tốt hơn người khác hoặc tự mình, mình có thể hành dộng tốt hơn họ, bởi vì mọi công việc chúng ta làm đều qui về vinh quang Thiên Chúa là nguồn ánh sáng: ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Nơi Đức Giêsu, ánh sáng đã tỏa chiếu trong thế gian. Chúng ta chỉ phản chiếu lại ánh sáng này. Đời sống, hành vi của chúng ta trở nên tấm gương phản chiếu vinh quang Thiên Chúa, trở nên nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người”.

2. “Thấm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng sức mạnh linh hoạt của muối và sự chiếu toả của ánh sáng” (J. Guiuet. Trong Giêsu trong niềm tin của các môn đệ đầu tiên, Desclée de Brouwer, 1995, tr.110-111).

“Matthêu đã xen kẽ hai đoạn ngắn với hình thức dụ ngôn về muối và ánh sáng vào giữa các Mối Phúc và những điều Đức Giêsu công bố về Luật (Do Thái). Cả hai đoạn này đều nhắm một nhóm riêng, phân biệt rõ ràng với những người đi theo nghe Ngài giảng, bởi vì nhóm này phải hành động theo lời Ngài dạy: “Anh em là muối cho đời”, “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,16). Trong bối cảnh Bài giảng trên núi, rõ ràng Đức Giêsu nói với các môn đệ theo Ngài. Và nếu không loại bỏ đám đông náo nức theo Ngài, chúng ta có thể tin rằng sứ điệp của Đức Giêsu đã gây một tiếng vang nào đó trong đám đông và có thể một hạt nhân các môn đệ thành hình, gồm phụ nữ và đàn ông muốn theo Chú, tuy nhiên họ không làm thành một dân tộc mới, họ vẫn luôn thuộc về dân của Abraham, của Môi-sen: họ là những người mang sứ điệp mới trong dân tộc họ. Điều này không có gì là lạ bởi vì người Israel đã có thói quen nghe các ngôn sứ nói đến tương lai mà Thiên Chúa đang chuẩn bị, tương lai đó có lúc đen tối, có lúc lại rực rỡ. Tuy nhiên, tương lai Đức Giêsu phác họa hoàn toàn khác trước.

Ở đây sự song hành với biến cố Sinai giúp làm sáng tỏ hơn. Một nhóm nhỏ những người dân giã tương ứng với dân chúng đông đảo tụ tập dưới chân núi của Thiên Chúa. Nhưng trong khi ơn gọi của dân Israel là làm chứng cho Thiên Chúa và là dấu chl sự chúc phúc của Thiên Chúa ở giữa các dân tộc, thì sứ mạng của nhóm hạt nhân nhỏ này là thẩm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng bức mành linh hoạt của muối vô sự chiếu tỏa của ánh sáng. Abraham là người được Thiên Chúa chúc phúc và mọi dân tộc trên mặt đất đều được chúc phúc qua ông (St 12,1). Dân lsrael của Môisen phải trở nên một dân lớn và mọi dân tộc khác đều thán phục cách ăn ở và tinh thần của họ: Khi biết đến các lề luật này, họ sẽ thốt nên: Chỉ có một dân tộc khôn ngoan và minh mẫn, đó là dân tộc lớn này. Thật vậy, có dân tộc nào lớn đến nỗi các thần linh của họ gần gũi họ như Giavê, Thiên Chúa của chúng ta ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”. (Dnl 4,6) Theo Đức Giêsu chỉ có một số môn đệ. Tuy sống trong lòng một thế giới còn chưa biết đến mình, nhưng họ lại mang theo mình một sức mạnh khả dĩ biến đổi thế giới. Bởi vậy, sự tỏa chiếu của các mối phúc trở nên động lực cuộc sống.

3. “Xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi”. (H. Denis, trong ‘100 từ để nói về niềm tin’, Desclie de Brouwer, 993, 95-96).

“Muối! Tại sao lại chọn vật nhỏ bé chẳng là chi hết ngoài công dụng như một thứ gia vị? Một số Kitô không còn quen dùng nữa. Giáo Hội đôi khi còn nuối tiếc việc bỏ không dùng muối trong bí tích rửa tội. Một sự tiếc nuối vô ích khi mà nó không thúc đẩy người ta dấn thân.

Muối Tin Mừng còn quan trọng hơn một nghi lễ rất nhiều Bạn hãy mường tượng và chúng ta còn sửng sốt về điệu này muối là chính bạn là chính tôi, là tất cả môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ Đức Giêsu là phải là muối cho đời. Chỉ vậy thôi! Một tham vọng ghê gớm, nếu chứng tá tự cho mình là những người tốt nhất, là giả vị duy nhất trong đám đông nhạt thếch, không có vị mặn. Nhưng đó sẽ là một trách nhiệm lớn lao nếu Đức Giêsu trao cho chúng ta một sứ mạng như vậy và cách thế để thực hiện nó. Vâng, trước hết chúng ta có trách nhiệm của một loại giao ước giữa cái là muối và cái chưa phải là muối. Môt thế giới không có muối thì chẳng có một chút hương vị nào, nhưng nếu ở ngoài thế giới này thì muối cũng vô dụn, Kitô hữu và thế gian là hai thành phần liên kết với nhau. Cả hai được tạo dựng để trộn lẫn với nhau. Hơn nữa, người trước tiên được lợi chính là người Kitô hữu, vì họ phải ướp mặn nơi họ tất cả những gì chưa là Kitô hữu. Một trách nhiệm khác mầ bạn biết rất rõ, đó là đừng la nhạt. Bạn đừng nghĩ rằng để tránh điều này bạn phải trốn khỏi thế gian ắt hẳn sẽ có nguy cơ bị tan rã ở đó cách đơn thuần và dễ dàng. Nhưng muối mà chất đống và để nguyên một chỗ cũng có nguy cơ bị phân hủy đi. Vậy bạn hãy nói cho tôi biết, nếu giữa người với người, giữa những Kitô hữu với nhau, chúng ta cố gắng duy trì vị hương cho thế giới của chúng ta thì phải làm thế nào? Không thể chỉ cậy vào mình. Phải có thể nói: Xin đưa cho tôi chút muối? như là trong bữa ăn của đôi vợ chồng, của cha mẹ và con cái. Vâng, nếu có bao giờ Tin Mừng nơi bạn nhạt nhẽo đi thì luôn có một người anh, một người chị để bạn hoàn toàn tin tưởng nói với họ: “xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi!”.

 

48.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Có lẽ các câu này là lời đả kích đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh thái quá thế gian (do ảnh hường của nhóm Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những cám dỗ thường xuyên của Kitô giáo không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?

2. Đâu là tầm quan trọng của muối trong thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt? Một công dụng đặc biệt?

3. Vì sao một thành phải được ưu tiên tọa lạc trên ngọn núi?

4. Đâu là ý nghĩa của chữ “ánh sáng các con “ trong thành ngữ “ánh sáng các con phải chói lọi trước mặt mọi người?

5. Các câu này có tạo nên mối liên hệ giữa người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của họ không? Mối liên hệ nào?

6. Người Kitô hữu là muối cho đời theo nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).

7. Làm sao dung hòa các câu 14- 16 với Mt 6, 1-18?

***

1. Trong thế giới cổ xưa, muối và ánh sáng được xem như là hai thực tại chẳng ai có thể bỏ qua: không gì ích lợi hơn muối và mặt trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102). Cả hai cũng thường được nhắc đến trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm cần thiết bậc nhất của dân Bedouin (Ả Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì xấu (2V 2, 19- 21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6) Nó nên thực phẩm (G 6, 6; Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi hy tế (Xh 30, 35; Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành biểu hiệu của sự hiếu khách, của minh ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau hết nó là biểu tượng của sự khôn ngoan (xem Phụng vụ Bí tích rửa tội - liên hệ với Ed 16,4) mà thỉnh thoảng nó được nối kết với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ; bấy giờ nó chỉ sự khôn ngoan hoàn hảo mà người hiền triết sẽ thủ đắc trong thời thiên sai.

2. Ánh sáng cũng năng được sử dụng như là một biểu tượng trong Thánh kinh, nơi nó thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị, người Tôi tớ Giavê được công bố là” ánh sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (42, 6). Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, “ánh sáng thế gian” được gán cho Thiên Chúa, cho Ađam, cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho Giêrusalem. Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian” (Lc 2, 32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (P 12, 15; so sánh với Ep 5, 8-14).

Kiểu nói trực tiếp trong Mt “Các con là muối... là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện dụ ngôn đi tiếp theo Tám mối phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ của cải, biết sống hiền lành khiêm nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử thách, kiên quyết theo đuổi sự hoàn thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta mới có thể nói thực với họ: “Các vị là muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian”. Phần tiếp của Diễn từ sẽ cụ thể cho thấy cách thức của người môn đồ tự tỏ mình là muối, là ánh sáng.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các con là”: Thành ngữ có lẽ mượn ở Xh 19, 6: “Các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh cho Ta”. Giavê đã nói với dân Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây nói với môn đồ Người đã chọn giữa loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi của tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh định sứ mệnh của các môn đồ Người.

“Muối cho đời “: “Đời”, ám chỉ loài người, là một từ ngữ quen thuộc với Cựu ước. Ở đây “đời” song song với “thế gian” của câu 14. Người môn đồ chẳng phải là muối của đất, vì không bao giờ muối được dùng như phân bón, nhưng là muối cho đời cho thế gian. Ở đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng “muối” không chỉ cần thiết cho bản thân người môn đồ, như là một phẩm chất nội tại, song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh của mình đối với nhân loại. Do đó phẩm chất cấu thành môn đồ không thể tách rời khỏi chức vụ truyền giáo của kẻ ấy. Đây là một nét nói lên chiều hướng phổ quát và truyền giáo mà Mt thích dùng.

“Nếu muối ra lạt”: Có thể giải thích hai cách:

1.    Hình ảnh dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy ở phía Tây-Nam Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc Djebel-ousdeum). Loại muối màu xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến thành bùn vô đụng dưới tác dụng của ẩm ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối, nhưng thực ra không phải là muối nữa.

2.    Đúng hơn, có lẽ Chúa Giêsu đã muốn gợi lên một hình ảnh không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến tính cách nghịch lý của một môn đồ đã đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn đồ.

“Thì lấy gì muối nó lại”: Phàm kẻ phải trở nên nguyên nhân hoàn thiện cho bao người khác thì không thể nhận lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho họ. Nếu y đánh mất nhân đức, người khác không thệ hoàn lại cho y.

“Nó không còn ích gì”: Muối nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay cả làm phân bón. Người môn đồ cũng vậy. Đánh mất sự cao quý của mình, kế đó trở nên đối tượng khinh khi, như thế mảng trong mình một sự thối nát đặc biệt; tình yêu ngày trước của y đi dần tới chỗ tiêu tán. Câu “Chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi “ gợi lên cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn bã ở phương Đông ngay xứ. Đây là hình ảnh nói lên việc kết án người môn đồ đã mất tinh thần của ơn gọi mình.

“Ánh sáng của thế gian”: ánh sáng của thế gian có nghĩa là cho thế gian, chứ không phải thuộc về thế gian hay là bản chất của thế gian. “Một thành tọa lạc trên núi”: đây là hình ảnh của một xứ mà các thị trấn thôn làng thường được xây trên các cao điểm (để có vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc tấn công từ bên ngoài vào). Điều đó đặc biệt đúng đối với Giêrusalem, thành mà ta có thể thấy từ rất xa. Trong trường hợp này, tuyệt đối không thể che dấu thành được. “Ánh sáng của các con”: Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô đem đến thì sống trong môn đồ và đơm hoa kết trái trong cách ăn nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô, Đấng đóng ấn người trên các môn đồ. Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải tỏ hiện ra trong các việc họ làm. Các hành động này phải có một phẩm chất, một tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ khơi dậy được, lời những kẻ chứng kiến, lời ngợi ca Thiên Chúa.

“Ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm”: Làm sao dung hòa câu này với 6, 1-18 (nhất là các câu 1-2. 5. 16)? Thưa động lực khác nhau trong hai bản văn: ở đây động lực là vinh quang Chúa Cha trên trời; còn trong 6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời khen ngợi bản thân để thỏa mãn lòng khoe khoang tự phụ (x. 6, 2-5: “hầu được vinh vang nơi người đời... hầu được bày ra cho người ta thấy...”). Cách hành động cũng khác nhau: ở đây, người môn đồ phải tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục đích làm người ta chú ý.

KẾT LUẬN

Môn đồ Chúa Kitô nhất thiết phải ảnh hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh phúc theo quan điểm của Chúa Kitô, thứ hạnh phúc của Bát phúc, thì người môn đồ mới có thể tỏa chiếu trong thế gian và ướp mặn môi trường sống của mình.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Người Kitô hữu toan thất vọng trước kết quả nghèo nàn của nỗ lực mình, phải can đảm lên bằng cách nhớ rằng mình thực sự quan trọng đối với thế giới hôm nay, mặc dầu bề ngoài có vẻ trái ngược, nhớ trong mình là muối và ánh sáng của trần gian. Nhân loại sẽ mất hết ý nghĩa nếu không có sự hiện diện là hành động của người Kitô hữu trong thế giới.

2. Người Kitô hữu toan nhụt chí và bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, cũng phải nhớ lại rằng, vì là muối và ánh sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận đào ngũ hay buông thả mà không phản lại với bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.

3. Chính việc can đảm thực hiện Bát phúc giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và ánh sáng của vũ trụ. Còn tất cả mọi đường lối hoạt động khác chỉ đưa đến sự lạt lẽo vô vị hay tăm tối u minh.

4. Lương dân sẽ trở lại trong mức độ thấy chung quanh họ có nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô trương cũng chẳng khiếp nhược cuộc sống môn đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt đều đặn khiêm tốn thường ngày. Đó là “chứng tá của Kitô hữu, là hành động truyền giáo duy nhất có hiệu quả trong một thế giới tin vào việc làm nhiều hơn vào lời nói.

 

49.Là muối đất và là sự sáng thế gian

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Người mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” theo Người.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Là muối đất... là sự sáng thế gian” (x. Mt 5, 13-14). Lời trên chứa đựng căn tính Kitô giáo của chúng ta. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối”, là “ánh sáng” nhưng là “muối đất” và là “sự sáng thế gian”.

Tại sao lại là muối đất?

Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “Các con là muối đất ” (Mt 5, 13).

Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.

Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.

Sao lại là sự sáng thế gian?

Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian” (Mt 5,14). Chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời Chúa cũng được tác giả Thánh Vịnh ví: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Isaia cũng nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).

Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

Là muối đất và là sự sáng thế gian

“Các con là sự sáng thế gian”, lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì chúng ta là Kitô hữu.

Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Chúa Kitô trong các bí tích, hay Lời Người và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Chúa. Hiệp nhất với Người, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.

Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ. Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày” (x. Is 58,7-10).

Do đó, mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi chúng ta là hãy chiếu tỏa “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ tròn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Ðại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).

Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).

Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.

 

50.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian

Lời mời gọi của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay vang lên thật khẩn thiết, gửi đến trước hết là các môn đệ, sau là chúng ta những người tín hữu đang sống ở mọi nơi và mọi thời đại. Sau khi Đức Giêsu công bố Tám Mối Phúc, Ngài phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Ngài mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” sống theo Ngài.

Quả thật, những lời Chúa Giêsu chứa đựng căn tính kitô giáo của chúng ta: “Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian”. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối” và là “ánh sáng” nhưng là “muối” “ đất” và là “sự sáng” “thế gian”.

Tại sao lại là muối đất?

Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “Các con là muối đất” (Mt 5, 13).

Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.

Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị, là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.

Sao lại là sự sáng thế gian?

Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian”, chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Cũng trong phụng vụ hôm nay ngôn sứ Isaia nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).

Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

Là muối đất và là sự sáng thế gian

“Các con là sự sáng thế gian”, những lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì chúng ta là Kitô hữu.

Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi rằng, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Đức Kitô trong các bí tích, Lời của Ngài và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Kitô Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Ngài. Hiệp nhất với Ngài, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan thật trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và hành động của con người.

Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ . Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Do đó mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Đức Kitô gửi đến mỗi chúng ta là hãy tỏa sáng “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ trọn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Đại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).

Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con làm thế nào để tuyên xưng đức tin của chúng con, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.

 

51.Tôn vinh Cha các con

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 5,13-16 nằm trong văn mạch diễn từ trên núi của Chúa Giêsu (4,23-7,29). Sau khi nói đến các mối phúc, hướng về tương lai (5,3-12), Chúa Giêsu chuyển sang nói đến bổn phận của người môn đệ trong hiện tại. Đoạn 5,13-16 liên kết với đoạn trên bởi đại từ “anh em” (ngôi thứ hai số nhiều) được dùng trong mối phúc cuối cùng “Phúc cho anh em khi người ta sỉ nhục anh em và bắt bớ, nói xấu anh em đủ điều vì danh Thầy…” (5,11-12). Từ câu 11 Matthêô không nói một cách tổng quát nữa về các mối phúc “Phúc cho ai…”, mà chỉ rõ đối tượng của mối phúc “Phúc cho anh em…”. Đại danh từ nầy được dùng hoặc ở dạng bổ ngữ “…người ta sỉ nhục anh em”, hoặc ở dạng sở hữu cách “phần thưởng của anh em”. Sang đoạn 13-16, đại danh từ nầy được dùng ở dạng chủ ngữ để chỉ căn tính “Anh em là…” và qua đó nói đến bổn phận. Đại danh từ còn xuất hiện hai lần ở phần kết luận, nhằm xác định tương quan giữa “điều tốt anh em làm” và “vinh danh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Như thế, ý nghĩa của đoạn 5,13-16 sẽ được soi sáng bởi văn mạch của nó trong liên hệ với đoạn trên.

Bố cục của đoạn 5,13-16 được phân chia cách rõ ràng theo sự phân bố của đại từ “anh em” (cc. 13.14.16 [3x]): – “Anh em là muối đất” (c. 13), – “Anh em là ánh sáng thế gian” (14-16a), – Kết luận (c. 16b). Muối nói về căn tính người môn đệ, và ánh sáng nói đến sứ mạng của họ. Cả căn tính lẫn sứ mạng đều phải được làm đúng theo bản chất của chúng. Hai phần nầy tượng tự nhau về cấu trúc và lý luận. Về mặt văn chương, hai phần dài ngắn khác nhau và dạng câu văn không hoàn toàn giống nhau. Tuy thế, chúng có điểm tương đồng: một khẳng định với cấu trúc giống nhau “Anh em là”, tiếp đến một trình bày dưới dạng phủ định: “Nếu muối ra dại/lạt…không làm gì được”, “Cái thành trên núi không thể che khuất được”, và “Không ai thắp đèn đặt dưới đáy thùng”, và một kết luận cho từng phần: tiêu cực “đổ ra ngoài cho người ta chà đạp”, tích cực “chiếu soi mọi người”. Sau cùng là kết luận chung cho cả đoạn (c. 16b). Chủ đề chính của đoạn là nói đến căn tính của người môn đệ và sứ mạng của họ trong tương quan với Thiên Chúa và người đời. Các từ vựng đáng chú ý: “anh em” (cc. 13.14.16 [3x] và các từ vựng liên hệ đến đại danh từ “anh em”; “người ta”, anthropos, (cc. 13.16). Từ “anh em” đóng khung đoạn nầy (cc. 13.16).

“Anh em là muối đất” (c. 13a)

“Anh em là muối đất”: đại danh từ “anh em” đặt đầu câu có tính cách nhấn mạnh. Cụm từ gồm đại danh từ + động từ eimi rất ít dùng cho ai khác ngoài Thiên Chúa và Chúa Giêsu (.x 16,15; 22,32, 24,5, đặc biệt trong tin mừng thánh Gioan).  Cấu trúc nầy dùng để chỉ căn tính. “Anh em” ở đâu chỉ những người đến nghe Chúa Giêsu: dân chúng và các môn đệ (c. 5,1), nghĩa là cộng đoàn của Matthêô. Từ “muối”, halas, chỉ được dùng trong câu nầy của tin mừng Matthêô. Xét theo mạch văn có thể thấy rằng Matthêô đưa ra khẳng định các môn đệ là “muối đất”, và thánh sử khuyến cáo ngay là đừng để muối bị biến chất và ra dại đi, hơn là định nghĩa về muối. Đây là hướng giải thích bản văn.

Động từ mōrainō, ở  thể  thụ  động có  hai nghĩa: “nên dại, nên khùng” (Rm 1,22; ở thể chủ động 1 Cor 1,20) và “nên nhạt, mất mùi vị”. Động từ nầy trong bản văn thánh Phaolô được dùng chung với từ sophos, “khôn ngoan” (Rm 1,22; 1 Cor 1,20) và hiểu theo cách đối nghịch với nhau: “Tự xưng mình là khôn ngoan, họ trở nên điên dại” (Rm 1,22). Cách đặt vấn đề “nếu muối đã nên dại”, mōranthē, rất có thể hàm ý muối ấy phải là “muối khôn ngoan”. Dĩ nhiên đây không phải là sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, mà là sự khôn ngoan của các mối phúc thật, trái nghịch với sự suy nghĩ và tìm kiếm của người đời.

“Muối của đất”: Luca và Marcô nói đến “muối tốt”, kalos (Mc 9,50; Lc 14,34), trong khi Matthêô không có một tính từ nào chỉ phẩm chất của muối. “Đất”, gē, là không gian nơi con người sinh sống (5,18.35; 6,10…) và người sống trên đất nầy (x. 9,26.31; 10,34). Muối không hiện hữu cho chính mình, mà trở nên công dụng tốt cho vật khác, bởi đó “muối của đất” có nghĩa là “muối cho đất”. Matthêô thường dùng cụm từ “đất và trời” để chỉ một toàn thể (5,18; 6,10; 11,25), sự liên hệ chặt giữa trời và đất (16,19; 18,18.19). Sự liên hệ trong đoạn nầy là người môn đệ là muối cho đất để người ta có thể nhận biết Cha của họ ở trên trời (c. 16).

“Nếu muối ra dại”: Matthêô và Luca đều dùng mōranthē, “nên dại”, trong khi Marcô analon genētai, “trở nên nhạt đi”. Trong tiếng Hipri và Aram từ tpl mang cả hai nghĩa “nên điên dại” (Gióp 1,22; 24,12; Giêr 23,13) và “nên nhạt đi” (Gióp 6,6; x. Êzek 13,10). Câu điều kiện ”Nếu muối ra nhạt/dại thì lấy gì muối nói lại?” có thể là cách nói thái quá, như câu trong phần hai “Không ai thắp đèn rồi đặt nó dưới đấu” (c. 14) để chỉ một sự việc khó, thậm chí không thể xảy ra. Muối xét theo phương diện hoá học không thể mất phẩm chất được Trong 6,23 Matthêô cũng có câu nói tương tự: “Nếu ánh sáng của con ra tối tăm, thì sẽ tối tăm chừng nào”. Sự vô ích của “muối đã nhạt” và việc người ta dẵm lên nó chỉ sự vô dụng của nó trong tương quan với con người, tương tự như nếu “đèn đặt dưới đấu” sẽ không soi tỏ cho ai được cả. Vậy đối với Chúa Giêsu, người môn đệ khi đã là muối, phải mãi là muối và là muối tốt.

“Anh em là ánh sáng thế gian”

Sau khi nói về căn tính của người môn đệ, Matthêô nói đến chứng tá của họ. Các từ vựng liên quan đến chủ đề ánh sáng: “ánh sáng”, phos (cc. 14.16), “thắp, đốt”, kaiō,  đèn, lychnos, chiếu soi, lampō (cc. 15.16). Từ “ánh sáng” (cc. 14.16a) đóng khung đoạn nầy. Cụm từ “Các con là ánh sáng thế gian” (c. 14a) khởi đầu được diễn tả cách khác ở phần kết luận “ánh sáng của các con trước mặt người ta” (c. 16a).

“Ánh sáng thế gian”, có nghĩa là ánh sáng cho thế gian. “Thế gian”, kosmos, chỉ mặt đất Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Mt 13,35.38; 25,34; 26,13; Cv 17,21; Kh 13,8). Từ “ánh sáng”, phos, xuất hiện bảy lần trong Matthêô, trong đó ba lần mô tả ánh sáng nơi của Chúa Giêsu (4,16[2x], 17,2), và 4 lần còn lại dành cho các môn đệ: mắt người môn đệ phải sáng vì đó cũng là sự sáng của toàn thân (6,22-23), và họ phải nói ra ánh sáng điều họ nghe từ Chúa Giêsu trong bóng tối (10,27). Như thế vì là ánh sáng, người môn đệ không được che dấu mình trong bóng tối (5,13.16).

Về việc nầy Matthêô trước tiên dùng hình ảnh so sánh “Cái thành xây trên núi” (c. 14.b). Hình ảnh nầy không mang ý nghĩa ẩn dụ hay tượng trưng nào cả, mà chỉ muốn nói sự hữu hình của nó. Cái thành ở trên núi cao thì ai cũng thấy. Cái thành trở nên điểm qui chiếu và định hướng cho vùng chung quanh. Tiếp đến, Matthêô dùng hình ảnh về cái đèn được thắp sáng. Như cái thành trên núi “không bị che khuất”, thì cái đèn thắp sáng “không thể đặt dưới đấu” được. Như cái thành nằm “trên núi”, cái đèn nầy phải được đặt trên giá. Mục đích của cái đèn thắp sáng khác với cái thành trên núi: nó tỏa ánh sáng ra và chiếu soi mọi người và mọi sự trong nhà (c. 15b); trong khi ở tin mừng Luca là “để ai vào nhà thấy được ánh sáng” (Lc 8,16). Điều nầy phù hợp với bản chất của” ánh sáng” trong Matthêô: ánh sáng là để chiếu soi và đưa ra ánh sáng tất cả những ai hoặc những gì nằm trong bóng tối (5,16; 6,22.23; 10,27).

Để kết luận phần nầy, Matthêô mở rộng sự áp dụng trong một mệnh lệnh: “Hãy chiếu toả ánh sáng các con trước mặt người đời”, hoàn thành cho khẳng định đầu tiên “Các con là ánh sáng trần gian”. Về “trước mặt người đời”, trong khi đó ở câu 6,1, cũng bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ của Ngài “Coi chừng đừng làm việc công đức trước mặt người ta để làm cho họ chú ý”. “Người đời”, anthropos, là người thuộc về trần gian nầy. Động từ theaomai, trong câu 6,1 nầy ở dạng thụ động và có nghĩa là “được thấy”, “kéo sự chú ý”. Ở câu 16a, người môn đệ phải “chiếu ánh sáng mình trước mặt người đời” không phải để kéo sự chú ý của người đời về phía mình, mà để làm vinh danh Cha trên trời (c. 16b). Điều nầy sẽ giải thích thêm trong phần tiếp theo.

“Họ thấy việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con…” (c. 16b)

Mệnh lệnh kết thúc phần hai dùng làm áp dụng cho kết luận cả đoạn, đánh dấu bằng hopōs, “vậy” (c. 16b). Phần đầu của kết luận lập lại ý tưởng của câu kết luận trên bằng từ ngữ khác và theo cấu trúc đối đảo: câu 16 a: A. Ánh sáng các con – B. Chiếu soi trước mặt người ta – và câu 16 b: B’. Người ta thấy – A’ Việc lành các con, và phần mở rộng của kết luận: “Họ sẽ tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời” (c. 16c). Vậy, “ánh sáng của các con” được hiểu là “việc lành các con”, và việc lành ấy phải “chiếu soi trước mặt người ta” để “người ta thấy” mà “tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”.

Việc người môn đệ là phải làm “việc tốt”, kata erga. “Việc tốt” là việc liên quan đến Chúa Giêsu (26,10) và Thiên Chúa (c. 16b). Việc tốt nầy phải được thấy trước mặt mọi người. Ở đây, Matthêô dùng động từ horaō, “thấy” thay vì theaomai, “kéo sự chú ý”. Người Pharisêô làm các việc để được người khác thấy/chú ý, theaomai; do đó người môn đệ không làm theo việc, erga, của họ (23,3; 6,1). Động từ horaō là động từ được ưa thích của Matthêô, 76 lần. “Thấy” là nhận thức thiêng liêng và thúc đẩy tìm kiếm Thiên Chúa, như trường hợp các đạo sĩ (2,2.9.10. 11), là kinh nghiệm nhìn thấy Thiên Chúa (4,16; 5,8). Vậy, ánh sáng của người môn đệ chiếu soi trước mặt người đời là để người đời nhìn thấy Thiên Chúa qua việc lành của họ. Người ta không dừng lại nơi người môn đệ mà đến với Thiên Chúa và tôn vinh Ngài. Chúa Giêsu ngăn ngừa các môn đệ của Ngài tìm vinh danh người đời cho bản thân mình (6,2). Trong mọi việc làm, erga, họ phải hành động như Chúa Giêsu là làm để người ta tôn vinh Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời (9,8; 11,2-5,15,31).

Ơn gọi của người môn đệ đòi hỏi họ hai điều: là muối, họ không thể để mất căn tính của mình, mà phải sống tốt lành như Chúa Giêsu, như Cha trên trời, và là ánh sáng, họ không được lẩn trốn, mà phải đứng ở vị trí ai cũng có thể thấy để qua việc họ làm, người ta tôn vinh Cha trên trời.

 

home Mục lục Lưu trữ