Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1361567

SỨ MẠNG CỦA NHÓM MƯỜI HAI

SỨ MẠNG CỦA NHÓM MƯỜI HAI– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ”: khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu… Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu Ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8-13; Hs 2, 2-3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).

“Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ “bơ phờ”, “yếu liệt”, “nằm sòng sãi”, như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu Ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: “Môisen thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ”. Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn “bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1V 22, 17; Gr 23, 1-2; 50, 6; Ed 34, 1-10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16.24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16,12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Êdêkien loan báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…

“Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu Ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v…). Trong Tân Ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giêsu và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế” (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31-46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Kitô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14-19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Kitô (Mt 10, 13-16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1-8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.

Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: “Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.

“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn”: Ở đây Matthêu dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công việc và thành quả giống như của Người và Ngài củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người.

“Mười hai sứ đồ “: Đây là lần duy nhất Matthêu dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ “Nhóm mười hai” (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông viết “Mười hai môn đồ” (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay “các môn đồ” (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v…), vì hơn Maccô và Luca, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ “sứ đồ” theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm Mười Hai và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.

“Đừng lên đường đến các dân ngoại”: Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói “thành của người Samari” để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Matthêu; và bởi thế ta hiểu được rằng Maccô và Luca đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Kitô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: “các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân” (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho “con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Matthêu đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.

“Hãy loan báo… hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v…). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11…) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Matthêu còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ Thiên sai, cảm hứng từ Isaia, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).

Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30-36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20-28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15-18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1-10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32-35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36-42; 20, 7-12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2-12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người, cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ còn “một đàn chiên, một chủ chiên” (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm Mười Hai, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc. Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài!

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó ta được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.

2) Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất (“Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó”, St 1, 28).

3) Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh…). Tuy nhiên Ngài ưu tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học… Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.

4) Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Kitô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XXI.

5) Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN -A

ÁNH MẮT CỨU ĐỘ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

I/.TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 9, 36 – 10,8

II/. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt. Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu không đến. Người ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi như chạy để tranh thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện, thông cảm. Và vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm cảnh chung quanh, ngay trước mắt ta.

Chúa Giêsu thì không như thế. Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám đông thoáng qua thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã nhìn kỹ từng người, thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một đám đông, Chúa vẫn có thời giờ nhìn kỹ từng người, vì Chúa quan tâm đến số phận của từng người.

Khi nhìn ngắm kỹ lưỡng, sẽ hiểu rõ. Khi hiểu rõ sẽ dễ chạnh lòng thương. Tuy nhiên từ ánh mắt đến trái tim là một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa. Trái tim con người thật khó hiểu. Khi mở ra thì bao la ngàn trùng. Nhưng khi khép lại thì vô cùng chật hẹp. Một hạt bụi cũng khó lọt qua. Khi thao thức thì vô cùng nhanh nhậy, chỉ một thoáng nhìn, chỉ một âm thanh mơ hồ cũng đã đủ làm xao xuyến, rộn ràng. Nhưng khi ngủ yên thì vô cùng chai cứng, chậm chạp, dù có đập vào mắt, dù có la vào tai, cũng lạnh lùng dửng dưng. Trái tim Chúa Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người.

Tình thương của Chúa Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viển vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Người lập tức an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng. Việc Người an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn mười hai Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.

Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy tôi ba bài học.

Bài học thứ nhất: hãy biết nhìn người khác bằng ánh mắt cảm thông. Ở Việt Nam phong trào đô thị hoá ngày càng mạnh. Các thành phố ngày càng phình ra vì dân cư từ quê đổ ra tỉnh tìm đường làm ăn sinh sống. Thành phố trở nên đông đúc chật chội. Người sống trong thành phố đang trở thành những con số vô danh, chìm mất giữa đám đông vội vã. Không ai biết ai. Không ai nhìn ai. Không ai quan tâm tới ai. Vì ai cũng bận lo cho bản thân mình. Hãy nhìn các đám đông trong chợ búa, ở trường học, ở công sở. Hãy quan sát đám đông trongvùng kẹt xe hay ở ngã tư đèn đỏ. Có biết bao linh hồn cô đơn buồn khổ. Có biết bao thể xác đang bị bệnh tật bào mòn. Có biết bao trái tim đang tan nát vì thất vọng. Hãy nhìn và hãy cảm thông như Chúa Giêsu nhìn đám đông và cảm thương họ.

Bài học thứ hai: hãy có một trái tim biết cảm thương. Đời sống ngày càng vất vả. Nhu cầu ngày càng nhiều. Vì thế con người ngày càng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân hoặc gia đình mình. Chính vì thế trái tim thường dễ khép lại, trở thành lạnh lùng, xơ cứng. Khi trái tim xơ cứng, ta không thể đón nhận được những thông tin từ ánh mắt đem lại. Và con đường từ ánh mắt đến trái tim trở thành muôn trùng diệu vợi. Hãy mở lòng ra. Hãy biết rung động. Hãy để lòng mình thổn thức nỗi đau của người. Hãy biết khóc thương những số phận hẩm hiu. Hãy âu lo cho những cuộc đời bế tắc. Hãy để cho niềm cảm thương dâng tràn trái tim như trái tim Chúa Giêsu đã cảm nghiệm.

Bài học thứ ba: công cuộc truyền giáo phải bắt đầu bằng tình thương. Đức Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người đã sai Chúa Giêsu xuống trần gian. Chúa Giêsu, vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, đã sai các môn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thết là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu nơi trái tim Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, nhân rộng trong cuộc đời. Vì thế người làm nhiệm vụ truyền giáo không bắt đầu bằng rao giảng, cũng không bắt đầu bằng cử hành bí tích mà phải bắt đầu bằng yêu thương. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.

Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Ta hãy học theo gương của chúa Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.

Lạy trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống trái tim Chúa. Amen.

III/. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1) Bạn có để giờ nhìn kỹ những người thân trong gia đình không? Bạn có thực sự hiểu hết những uẩn khúc trong tâm hồn những người thân yêu không?

2) Mỗi khi gặp một hoàn cảnh đáng thương, bạn có cụ thể làm ngay một việc gì để giúp đỡ không?

3) Sống chan hoà yêu thương là truyền giáo. Bạn nghĩ gì về điều này?

home Mục lục Lưu trữ