Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 65
Tổng truy cập: 1361903
SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
Có những cuốn sách khi khép lại, chính là lúc mở ra: mở ra cho suy tư, mở ra cho trách nhiệm, mở ra cho hành động. Sách Tin Mừng là cuốn sách như thế, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Nếu Tin Mừng khép lại cuộc đời Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một trang sử mới. Nếu biến cố Thăng Thiên khép lại cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một mệnh lệnh mới phải được thực thi, một trách nhiệm mới phải được hoàn thành, một hiện diện mới phải được đón nhận. Chính trong sự đan kết đó mà phụng vụ lời Chúa hôm nay vừa mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên, lại vừa đòi hỏi chúng ta đào sâu trách nhiệm truyền giáo, trach nhiệm rao giảng Tin Mừng, trách nhiệm tông đồ trong đời người Kitô hữu. Đó là hai điều chúng ta tìm hiểu sau đây.
Trước hết, về mầu nhiệm Thăng Thiên, tức là mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Trong bốn sách Tin Mừng, chỉ có hai sách nói đến việc Chúa Giêsu lên trời, đó là Tin Mừng Máccô và Tin Mừng Luca. Thánh Máccô nói rất vắn tắt, chỉ nói Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha, chứ không nói Chúa lên trời ở đâu và sau khi sống lại được bao lâu. Còn thánh Luca, đọc Tin Mừng của ngài chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên trời ngay ngày Chúa sống lại và ở gần Bê-ta-ni-a. Nhưng theo sách Công vụ Tông đồ, cũng của thánh Luca, thì Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được bốn mươi ngày, và chỗ Chúa lên trời là núi cây dầu. Còn Tin Mừng thánh Mat-thêu chúng ta nghe đọc hôm nay chỉ kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên một ngọn núi Chúa đã truyền cho các ông đến và truyền lệnh cho các ông đi rao giảng cho muôn dân mà không nói gì đến việc lên trời.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Vậy ý nghĩa của mầu nhiệm này thế nào? Việc Chúa Giêsu lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài. Nghĩa là Ngài là con Thiên Chúa, từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống, nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Chúa Giêsu lên trời là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha, để cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Tuy nhiên, để đạt được Nước Trời đòi hỏi chúng ta phải trả giá. Cũng như không có thành công nào hay hạnh phúc nào ở đời này mà lại đạt được quá dễ dàng, thì hạnh phúc Nước Trời lại càng khó hơn biết bao, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và cố gắng về mọi phương diện. Những ngày sống lữ thứ trần gian là để đi vào Nước Trời, chúng ta phải cố công đi cho tới đích, không bao giờ được bỏ cuộc, không trẽ ngang, không đi lui, phải đi tới mãi. Đường vào Nước Trời thiên nan vạn nan, chứ không phải dễ dàng ra vào như đi chợ hay đi bát phố. Kinh Thánh nói: “Người ta phải dùng sức mạnh sấn sả mà đi vào, đi vào con đường hẹp, phải ra đi trong nức nở, mới trở về trong hân hoan”. Cũng thế, ai cũng biết bài học “nước chảy đá mòn”, “kiến tha lâu đầy tổ, “có công mài sắt có ngày nên kim”, “có khó mới có miếng ăn”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng vậy, Chúa dạy: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, vì Nước Trời đòi hỏi rất nhiều cố gắng, rất nhiều công lao khó nhọc.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa, sống theo những lời Chúa giảng dạy, để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai các ông ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho các ông nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin theo Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã giảng dạy, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng, nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Chính nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người Kitô hữu là cánh tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt, với mọi người trong gia đình, với xóm ngõ, với bạn bè, trong nơi làm việc và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt có nghĩa là sống cởi mở, sống hòa đồng, sống vui tươi, sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Tóm lại, lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay nhắc nhở chúng ta: Chúa đã lên trời, chúng ta cũng sẽ về trời, đó là cùng đích của hạnh phúc đời người. Vì thế, chúng ta hãy sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hàng ngày để đạt được hạnh phúc ấy. Đồng thời, ngày lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.
14.Quê hương đích thực--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay cho biết: Chúa Giêsu lên trời trước mặt nhiều môm đệ vào ngày thứ 40 sau phục sinh, tức là lần hiện ra cuối cùng với họ, và trong khoảng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa Giêsu không ở liền với các môn đệ mọi giây phút, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hiện ra thôi. Như thế, những lúc không hiện ra với các môn đệ thì Chúa ở đâu? Thực ra, vấn đề thăng thiên của Chúa có thể ghi lại những điểm chính như sau:
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh nơi Chúa Cha ngay lập tức rồi. Nói cách khác, Chúa Giêsu phục sinh rồi lên trời ngay để ngự bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên, trong quãng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, và vào lần cuối cùng, ngày thứ 40, Chúa hiện ra đàm đạo với các môn đệ, nhắn nhủ họ nhiều điều, rồi Ngài lên trời trước mắt họ. Từ đấy Ngài không còn hiện ra với họ như trước đó nữa cho tới ngày tận thế. Dầu sao ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta lưu ý đến ý nghĩa của mầu nhiệm Thăng Thiêng hơn là đến ngày giờ mầu nhiệm ấy xảy ra.
Mầu nhiệm Thăng Thiên nhắc nhở ít nhất hai điều: Thứ nhất, Chúa Giêsu về trời, nhưng ngài vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta. Là những con người tại thế, bị ảnh hưởng và chi phối bởi giác quan, chỉ quen chấp nhận những gì giác quan kiểm chứng được, nên chúng ta dễ cảm thấy rằng: ra đi là mất mát, chia lìa là đau đớn kinh khủng, là chết đi một chút. Do đấy chúng ta cũng thường nghĩ rằng: Chúa Giêsu đã về trời, thế là mọi sự hết mất rồi. Nhưng sự thật không phải thế. Chúa Giêsu Phục Sinh đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Ngài lại vẫn còn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thăng Thiên chính là một cuộc chuyển tiếp từ hiện diện hữu hình sang hiện diện thiêng liêng. Nghĩa là từ đây Chúa Giêsu phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, màhiện diện một cách thiêng liêng. Dấu hiệu của sự hiện diện này là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Đúng vậy, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đó cũng là ý nghĩa của câu Chúa khẳng định với các tông đồ: " Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta: Chúng ta đang sống ở trần gian, nhưng phải luôn hướng về trời. Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở lại quê nhà.
Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.
Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.
Sống ở đời này, ai ai cũng có những hy vọng. Chúng ta hy vọng về nước trời như là cái đích cuối cùng ở cuối con đường trần gian. Cuộc sống hôm nay nơi trần gian phải có một mục đích. Nếu sống hết ngày này qua ngày khác, phấn đấu lam lũ làm ăn, vất vả, cực khổ...chỉ để sống vậy thôi, chứ không biết mình sống để làm gì thì đời chúng ta thật là vô nghĩa và phi lý. Vậy chúng ta đã có mục đích sống cho đời mình chăng? Mục đích đó là mục đích nào? Thưa đó là nước trời. Vì vậy cuộc đời này là một cuộc hành hương về nước trời.
Ước gì từng hành động, từng suy nghĩ, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta cũng đều là một đáp trả tích cực của chúng ta với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta đã có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.
15.Ra đi trong lời hứa--G. Nguyễn Cao Luật
Một sự hiện diện mới
Ở phần đầu sách Tin Mừng, thánh Mátthêu đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia để loan báo sự xuất hiện của người con thuộc dòng họ Đavít, Đấng được gọi là "Emmanuen", có nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Tất cả các phần sau của Tin Mừng Mátthêu đều nhắc đến sự hiện diện này, một sự hiện diện mà người ta có thể cảm thấy, sờ thấy, nhìn thấy...
Nhưng đã đến lúc chấm dứt sự hiện diện này, không phải là tan biến đi, nhưng là mang một hình thức mới còn sâu xa, còn mãnh liệt và cụ thể hơn sự hiện diện trước kia: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Thế nào là sự hiện diện đích thực? Khi nào thì sự sống của một hữu thể khác thấm nhập vào một người đến nỗi cả hai biến thành một? Theo một ngôn ngữ khác với thánh Gio-an, thánh Mát-thêu làm nỗ bùng những sự kiện hữu hình để dẫn đưa độc giả vào một cái nhìn khác về thực tại.
Đức Giêsu hẹn gặp các môn đệ tại một ngọn núi ở miền Ga-li-lê. Theo tác giả sách Tin Mừng thứ nhất, Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại, là điểm tiếp xúc của những biên giới. Đây là miền đất biểu tượng cho thế giới ngoại đạo, đồng thời cũng tiêu biểu cho việc rao giảng Tin Mừng. Chính tại đây, giữa lòng nhân loại mà các môn đệ - cũng như người Kitô hữu sau này - khám phá ra ý nghĩa sự hiện diện của Đức Giêsu.
Đàng khác, sau cuộc gặp gỡ cuối cùng này, Đức Giêsu không còn xuất hiện hữu hình với các môn đệ nữa. Nhưng sự hiện diện vô hình của Người đạt tới chiều sâu và chiều rộng mà thân xác của Người nơi trần gian không cho phép đạt tới. Nhờ Thần Khí, sự hiện diện này không chỉ giới hạn ở đây ở đó, vào những cách thức thông thường, nhưng được mở rộng đến mọi nơi và theo nhiều cách thức khác nhau. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở cùng con người qua lời của Người, qua các bí tích, qua người thân cận, và nhất là qua sứ vụ tông đồ.
Quả thế, Đức Giêsu được Chúa Cha phục sinh và tôn vinh, đặt làm Chúa vũ trụ và làm nguồn mạch thông ban sự sống, được đặt ngự bên hữu Chúa Cha, tức là trong một tình trạng hoàn toàn mới. Qua nhân tính được Thần Khí điều động, Đức Giêsu hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới, nơi mỗi người, qua mọi thời đại, như nguyên nhân cứu rỗi duy nhất. Sự thăng thiên của Đức Giêsu đưa Người ra khỏi một góc trời, khuất khỏi tầm mắt của một nhóm người để làm cho Người có mặt và hoạt động trên khắp thế giới và nơi mọi con người. Đó là cuộc ra đi cần thiết và hữu hiệu như Đức Giêsu đã báo trước. Cuộc ra đi làm cho Đức Giêsu trở nên rộng lớn hơn, cũng như cộng đoàn các môn đệ thêm rộng lớn. Rộng lớn như vũ trụ, như vương quyền của Đức Giêsu.
Vì thế, ngay từ bây giờ, không phải là lúc đứng một chôỵ mà đăm đăm nhìn lên bầu trời, nhưng là lúc phải lên đường, phải trở thành chứng nhân về Đấng Phục Sinh, phải loan báo cho mọi người, phải trở nên kẻ cộng tác với Người để mở rộng vương quốc.
Cuộc ra đi mở đầu
Trong tường thuật về thăng thiên, thay vì dừng lại ở những chi tiết, dù rất đơn giản, về cuộc ra đi thể lý của Đức Giêsu, các độc giả sách Tin Mừng nên nhấn mạnh về ý nghĩa cuộc ra đi của Đức Giêsu cũng như về sứ mệnh Đức Giêsu trao lại cho các môn đệ.
Cuộc ra đi của Đức Giêsu thật bất ngờ. Như một tia sáng vụt qua bầu trời, lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu là chứng cớ, đúng hơn là dấu khả giác về việc Người đi vào luôn mãi trong vinh quang của Chúa Cha, tức là trở vế với điểm xuất phát của Người. Nhưng Người không trở lại nơi đó một mình. Người lôi kéo theo cả nhân loại, mặc dù còn trong hy vọng, nhưng là một niềm hy vọng có thực, không phải là ảo tưởng.
Và điều quan trọng hơn, đó là trước khi biến đi, Đức Giêsu đã đặt các tông đồ làm những người "tiếp nối" công việc cứu độ của Người trong thế giới. Để thực hiện sự liên tục này, Người đã sai Thần Khí của Người đến trên các ông. Sự tuôn đỗ Thần Khí một cách viên mãn ấy sẽ được mô tả vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thần Khí biến nhóm môn đệ nhỏ nhoi này thành Giáo Hội của Đức Kitô với sứ mạng làm chứng về sự phục sinh của Người cho toàn thế giới. Như trên một cây cầu mà móng cắm sâu vào dòng sông, đối với các môn đệ, kể từ nay các môn đệ sẽ phải rời bỏ bờ sông quen thuộc với những lần hiện diện thân thương để đi đến những miền đất còn xa lạ. Tại những miền đất đó, chính Thánh Thần của Đấng Phục Sinh sẽ nắm lấy các ông và hướng dẫn các ông.
Đó quả là một kinh nghiệm lớn mà dần dần các môn đệ sẽ hiểu ra. Nhưng ngay lúc này, khi chứng kiến việc Đức Giêsu biến đi, các ông vẫn tràn ngập niềm vui "trở về Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ".
Do đó, với tư cách là cộng đoàn kế tục cộng đoàn tông đồ, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu sẽ luôn kiểm điểm đời sống của mình xem có phù hợp với sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu. Theo đúng lời bảo của Đức Giêsu, Giáo Hội sẽ phải trung thành thực hiện sứ mạng này trong suốt chiều dài của lịch sử, cho đến ngày Người trở lại, với niềm tin chắc chắn vào sự hiện diện đầy năng động của Vị Thủ Lãnh, Đấng luôn gìn giữ và hướng dẫn Giáo Hội qua ân sủng Thần Khí.
Như vậy, cuộc ra đi của Đức Giêsu là khởi đầu cho những cuộc ra đi khác, bắt đầu là các tông đồ, sau đó là Giáo Hội cho đến ngày tận thế.
Chúa chúng ta ở đâu?
Đối với chúng ta ngày nay, một câu hỏi vẫn thường được đặt ra: "Đức Giêsu, Chúa của bạn, đang ở đâu?" Câu hỏi này càng trở nên gay gắt hơn trong những hoàn cảnh bi đát và buồn phiền, đến nỗi ngay cả những người bình tĩnh nhất cũng cảm thấy lúng túng.
Quả thất, trước một câu hỏi như vậy, những câu trả lời chúng ta đã nghe khi học giáo lý thời nhỏ không làm chúng ta thoả mãn. Đức Giêsu không chỉ ngự "trên trời" hay "khắp mọi nơi", và cũng không phải chỉ "ở trong tâm hồn những em bé ngoan ngoãn".
Đối với chúng ta cũng như với các môn đệ, niềm xác tín duy nhất chính là Đức Giêsu ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nếu chúng ta tin vào lời hứa đó, để rồi trong mọi hoàn cảnh, giữa những thăng trầm của cuộc sống, chúng ta vẫn sẵn sàng quả quyết: ""Vâng, Đức Kitô đang sống, Người ở đây, mặc dù tôi không thấy Người, cũng chẳng biết Người như thế nào"", thì câu hỏi chẳng còn ý nghĩa gì.
Bởi vì, vấn đề ở đây không phải là "biết" Chúa ở đâu, nhưng là "thấy" Chúa ở đâu. Cũng không phải là học một câu trả lời, nhưng là hướng cái nhìn của chúng ta để nhận ra Đức Kitô ở bất cứ nơi nào có sự sống, bất cứ nơi nào sự sống đang phát triển.
Như thế, Đức Giêsu không có mặt trong những nơi sự chết đang hoành hành. Và ngược lại, ở bất cứ nơi nào có sự sống, chúng ta có cơ may được nghe thấy tiếng của Người, được nhìn thấy Người đang bước đi trên những nẻo đường đầy hy vọng.
Do đó, chúng ta không chỉ bằng lòng với việc quả quyết: "Đức Kitô đang ở đây", nhưng còn phải mở to đôi mắt, phải lắng tai để nhận ra Người.
Và chúng ta cũng nhận ra rằng ở đâu có Tình Yêu làm sức mạnh cho đời sống, ở đó có Chúa ngự trị, và tại đó chúng ta sẽ gặp Người.
Hơn nữa, chúng ta sẽ không buồn phiền vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, trái lại chúng ta hân hoan làm chứng về Người. Bởi vì từ cuộc ra đi của Người, chính chúng ta cũng được mời gọi ra đi trên những nẻo đường khác nhau, trong ân huệ Thần Khí, để công bố về lời quả quyết "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
16.Bàn giao nhiệm vụ--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.
Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.
Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người”. Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.
Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).
Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt”.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời, đáng lẽ ra phải là một ngày đại lễ, một cuộc rước khải hoàn vĩ đại nhất, vui mừng nhất, long trọng nhất, như lễ Quốc khánh của trời đất, cho nên Đáp ca trong Thánh lễ đã hô hào: “Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thượng đế, Thượng đế ngự lên giữa tiếng tưng bừng, trong tiếng kêu vang, hãy ca mừng, ca mừng vua ta” (Tv. 46).
2- Nhưng việc Chúa Giêsu lên trời, sách Tin mừng chỉ tường thuật rất đơn giản âm thầm, như một cuộc bàn giao nhiệm vụ. Trên trời thì: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” dưới đất thì Thầy đã trao cho anh em: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đây là một cuộc bàn giao nhiệm vụ vô cùng trọng đại và nặng nề. Để các ông được an tâm tin tưởng và mạnh mẽ thi hành trọng trách này. Đức Giêsu đã quả quyết với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Như vậy, anh em không phải đăm đăm nhìn trời mong chờ Thầy nữa, vì Thầy không lìa xa anh em mà là ở cùng anh em, không ở cùng anh em bằng thân xác 3 năm hay 30 năm như trước đây mà ở cùng anh em bằng tinh thần Thiên Chúa. Thầy lên trời như vậy là để anh em được sống hiệp thông, hiệp nhất với Thầy ở khắp mọi nơi, trong tinh thần và chân lý, trong tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế anh em đến được với muôn dân thực hiện nhiệm vụ làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy, như Thầy đã làm cho anh em vậy. Đó là con đường phép rửa, đó là con đường lên trời.
3- Đức Giêsu đã mở con đường phép rửa này khi đến sông Giođan và cùng với Gioan kêu gọi toàn dân chịu phép rửa hối cải. Đó là bước đầu của con đường lên trời.
Bước thứ hai là: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần” (Mt. 3, 11). Thánh thần đã lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu để chứng tỏ cho mọi người thấy: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt. 3, 17-17). “Chính nhờ Thánh thần của Đức Kitô mà anh em được gọi Thiên Chúa là Cha” (Rm. 8, 15-16).
Ta muốn chứng tỏ làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì hãy nghe lời Người: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy”. Cho nên Thầy đã bảo anh em: “Dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Khi họ đã yêu mến giữ lời Thầy truyền, họ xứng đáng được rửa “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây là bước tột đỉnh lên trời, vì họ đã thực sự sống trong gia đình Thiên Chúa, là con Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Họ đã được thanh tẩy mọi tì ố để trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được “Thầy ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế”. Đó chính là lên trời, là Thiên đàng thực sự vì họ được Thiên Chúa ở cùng mãi mãi.
“Lạy Cha, ngày Đức Giêsu, Con Cha yêu dấu, lên trời đã mở cho chúng con thấy con đường lên trời. Xin Cha ở cùng chúng con luôn mãi để chúng con cùng với muôn dân được sức mạnh của Con Cha thúc đẩy, cùng nhau hăng hái tiến bước lên trời vinh quang của Cha. Amen”.
17.Chúa lên trời, ta hãy mến yêu những sự trên trời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả. Nội dung chứa đựng trong những lời sau: "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó "Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, "đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, Ngài là là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu "đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa" (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông: "các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28, 19). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô " cho đến tận cùng trái đất "(Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa: " Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc: "Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy" (Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: " Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu... ".
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, "vinh quang của Đầu" đã trở thành "niềm hy vọng cho thân xác" (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, "Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ tao cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria "Nữ Vương Thiên Đàng", chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
18.Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!
Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.
1. Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước
Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “... tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi" (Ga 7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm".
Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).
Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất...
2. Truyền giáo là bản chất của chúng ta
Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.
Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.
Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).
Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!
Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).
Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.
Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen.
19.Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục”.
Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn”.
Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…
Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…
Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn”.
Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:
“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?”.
Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!”.
Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy”.
Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.
Kính thưa ông bà anh chị em, có lẽ đây cũng là lối sống của nhiều người trong chúng ta hôm nay. Hơn bao giờ hết, người thời nay với lối sống xô bồ, đua tốc độ với thời gian, lấy vật chất làm động lực sống, coi hưởng thụ khoái lạc làm mục tiêu hành động nên đã sử dụng môn quảng cáo như là một tuyệt chiêu để tranh sống và sinh tồn ở đời. Do đó, người ta đua nhau tổ chức cuộc sống mình đặt trên cơ sở lấy ngắn hạn thay cho dài hạn, lấy lợi trước mắt quên tác hại sâu xa, lấy bên ngoài quan trọng hơn bên trong, lấy xác hơn hồn. Tất cả những sai lầm nguy hiểm trên đương nhiên ai cũng biết, nhưng người ta vẫn cứ sống, vẫn cứ coi thường.
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa lên trời.
Và mỗi lần như thế chắc chắn Chúa vẫn kêu mời mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại hướng đi cho cuộc đời của mình. Hay nói cách khác Chúa muốn chúng ta, nhân cơ hội kỷ niệm biến cố Ngài về trời, sáng suốt nhận ra được đâu là mục đích chính của đời sống tại dương thế. Thế mà không hiểu tại sao mọi người chúng ta hình như cứ mải mê cố tình coi nhẹ sự sống đời sau.[1]
Sở dĩ có tình trạng mê lầm mất phương hướng này một phần do những nguỵ biện trong cuộc sống:
nào là “có thực mới vực được đạo”,
nào là sống đạo cốt tại tâm,
nào là phải lo đủ thứ bổn phận trách nhiệm trong gia đình ngoài xã hội,
nào là phải liên tục đương đầu để giải quyết biết bao công việc khó khăn.
Tất cả những thứ đó đã mê hoặc, ru ngủ chúng ta đến nỗi chúng ta cho việc lơ là phần thiêng đạo đức, bỏ bê việc lành, dễ dãi với những yếu đuối sa ngã, khô khan nguội lạnh đôi chút đều không có gì phải ân hận, nuối tiếc cả.
Ngoài ra còn do ảnh hưởng bên ngoài đầu độc. Chẳng hạn, thời nay hầu như ai cũng lấy lợi nhuận, hưởng thụ làm mục tiêu của cuộc sống, trong khi kẻ nào chủ trương ăn ngay ở lành, ăn chay đền tội thì người ta cho là khờ dại. Thêm vào đó, nhiều chủ thuyết cổ võ lối sống tự do phóng khoáng, phi đạo đức luân lý, đả kích tôn giáo khiến đức tin của một số người lung lay và hoài nghi những chân lý trong đạo.
Đặc biệt ma quỉ đâu chịu ngồi yên, chúng dùng mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tối đa mọi hoàn cảnh để ra sức dụ dỗ con người nghi ngờ Chúa, quên đời sau.
Cuộc sống hiện tại của chúng ta là như thế đó, nên ngày lễ hôm nay, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta: cuộc sống trên trần thế này không làm thỏa mãn chúng ta và trần gian này chỉ là nơi tạm bợ, chưa phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời. Hiểu như thế chúng ta mới thấy được cuộc sống trần gian này chỉ là một giai đọan, một sự chuyển tiếp dẫn chúng ta về quê trời, nơi Chúa Giêsu đã về trước để chuẩn bị cho chúng ta. Amen.
[1] Sưu tầm
20.Lễ Chúa Thăng Thiên--Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung
Hôm nay, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa cử hành đại lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hay còn gọi là Chúa Giêsu lên trời. Mầu nhiệm này đã được Dân Chúa ngay từ đầu tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.
Chúa Giêsu “được đưa lên trời” đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”(Ga 3, 13). Vì thế, nếu ta cho rằng về trời theo quan niệm địa lý bình dân như trời cao đất thấp, thì ta có thể nghĩ rằng việc Chúa về trời là ở xa loài người. Quan niệm về trời xa như vậy là rối đạo, là lạc giáo, không khác gì sự ngớ ngẩn của một phi hành gia không gian, anh Youri Gagarine của Liên Xô, sau chuyến du hành vũ trụ, bay về mặt đất, đã ngông nghênh tuyên bố rằng: “Tôi đã bay ngang dọc khắp không gian nhưng chẳng gặp một ông Chúa nào trên đó cả”. Với một quan niệm và niềm tin mơ hồ lệch lạc như thế, chắc chắn không phải chỉ với vài khoảnh khắc trong không gian anh ta không gặp được Thiên Chúa mà nếu anh ta cứ cố chấp và kiêu căng, có lẽ đời đời Thiên Chúa sẽ “ngàn trùng xa cách”.
Như vậy, lễ Chúa Thăng Thiên hay Chúa lên trời không phải là một cuộc tiễn đưa Chúa Giêsu đi vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Nhưng Chúa lên trời được hiểu là chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Ngài tại trần thế, Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa. Chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Chúa bắt đầu một sự hiện diện “ẩn khuất”, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài. Chẳng hạn: Chúa hiện diện trong Lời Ngài, trong Bí Tích Thánh Thể, trong những anh chị em sống chung quanh, trong những người nghèo hèn, khốn khổ, bị bách hại đau thương, trong mỗi người chúng ta khi chúng ta họp nhau dâng lời cầu nguyện và tiến dâng hy tế: “Ở đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta thì có Ta ở giữa họ”…Và lát nữa đây, trên bàn thờ này, nhờ Ngài lên trời, mà chúng ta được hân hoan đón nhận Mình Thánh Ngài như lương thực trường sinh nuôi dưỡng chúng ta trên cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa, Chúa Giêsu về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ cứu chuộc mà Chúa Cha đã trao phó, nhưng sự cứu độ của Chúa Giêsu vẫn còn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”(Mt 28, 19-20). Mệnh lệnh này Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta là những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Chúa Giêsu tại trần gian này.
Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, Chúa cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời…Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời”. Và như lời kinh tiền tụng hôm nay cũng nói: “Người đã lên trời trước, để chúng ta là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”. Quê trời là đích điểm của người kitô hữu. Quê trời là niềm hy vọng cho những ai biết dấn thân xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này. Vì thế, những hy sinh ở đời này, dù có chịu nhiều mất mát, thiệt thòi đi nữa vẫn không thể nào so sánh được cuộc sống trên quê trời.
Trong tờ báo Công Giáo và Dân Tộc, số 1505 có đăng tải thắc mắc của một em bé 10 tuổi, tên là Thu Minh, em hỏi: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới qua đời có được lên thiên đàng không?”. Với câu hỏi ấy, hôm nay em Thu Minh có lẽ đã tìm được câu trả lời. Vì để tỏ lòng biết ơn Đức Giáo Hoàng về những công lao to lớn trong việc phục vụ cho Giáo Hội hoàn vũ, vào ngày 27. 4. 2014 vừa rồi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành lễ phong hiển thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp kỷ niệm ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót. Như chúng ta đã biết, việc ai được lên thiên đàng, đó là quyền Thiên Chúa xét đoán. Chúng ta tin Thiên Chúa như một người Cha, giàu lòng thương xót và luôn giúp chúng ta sống tốt. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chắc chắn đã sống tốt: ngài hoạt động cho hòa bình thế giới, ngài đã đi thăm những người nghèo khổ, ngài đã bênh vực những người yếu hèn, ngài đã hòa giải những tôn giáo không cùng ý tưởng, ngài đã đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người trên toàn cầu. Nén bạc mà Thiên Chúa giao cho ngài đã được sinh lợi gấp trăm, gấp ngàn lần. Một cuộc sống như vậy thế nào cũng được Thiên Chúa dành cho một chỗ trên thiên đàng, và chắc chắn Thánh Gioan Phaolô II sẽ được gặp lại Chúa và tất cả những người thân thương của ngài. Tin vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta tin chắc giờ này Thánh Gioan Phaolô II rất hạnh phúc vì được ở gần Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Cũng trong tâm tình đó, Chúa Giêsu lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng. Muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời bằng cách chu toàn thật tốt bổn phận ki tô hữu ở trần gian. Chu toàn thật tốt bổn phận ở trần gian là góp phần xây dựng Nước Trời. Một khi chu toàn tốt bổn phận ở trần gian như vậy đó là dọn chỗ ở trên thiên đàng. Trần gian không phải là nơi ta chọn để bám víu luôn mãi. Nhưng trần gian là cơ hội để ta đạt tới hạnh phúc trên thiên đàng.
Ước gì, xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết chu toàn bổn phận hằng ngày để mai sau được về trời với Chúa. Amen.
21.Về Trời--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mừng lễ Chúa Lên Trời, Về Trời hay Thăng Thiên, ý nghĩa là Chúa Giêsu Kitô đã được cất nhắc lên và không còn xuất hiện hiển nhiên với các tông đồ nữa. Theo kiểu nói bình dân có hình tượng đi lên, đi xuống và ngự bên phải, bên trái, để mọi người dễ hiểu. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mệnh tại thế: Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy, Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng, Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa (Tđcv 1, 3). Chúa Giêsu đã xuống trần gian sinh sống trong khoảng thời gian ba mươi ba năm. Chúa ra rao giảng Tin mừng Cứu độ, chịu khổ hình thập giá, chết và sống lại. Sau khi sống lại, Chúa lưu lại trần gian một khoảng thời gian ngắn để dạy dỗ, an ủi và sai phái các tông đồ đi ra làm nhân chứng tin mừng. Rồi Chúa lên nơi đã ở trước và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trí khôn của chúng ta chỉ có thể hiểu được các sự kiện gắn liền với thời gian và không gian. Đôi khi chúng ta thắc mắc, lên trời là lên nơi nào và ở đâu? Xa hay gần. Bầu trời thì bao la như không cùng.
Thánh Luca, tác giả sách Tông Đồ Công Vụ làm sáng tỏ một chút: Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ người khuất mắt các ông (Tđcv 1, 9). Chúa Giêsu được cất lên, mây che phủ và khuất mắt các tông đồ. Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện với các tông đồ theo thể thức khác. Chúa không còn hiện ra cách nhãn tiền để đàm đạo, dậy dỗ hoặc ăn uống với các ông như trước nữa. Chúa sẽ hiện diện linh thiêng qua các việc cử hành phụng vụ, các Bí tích và hiện diện nơi cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện với lịch sử của một dân tộc được chọn lựa. Có khởi đầu, diễn tiến và sẽ thành tựu trong thời gian và không gian. Các sự kiện lịch sử về ơn cứu độ được in ghi rất cụ thể và gắn kết với một dòng dõi, nơi một đất nước xứ sở và dưới thời một vua chúa, quan quyền.
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Kitô đã được chuẩn bị rất lâu dài qua cả ngàn năm. Thiên Chúa Cha đã tuyển chọn một người, một gia đình sinh xôi nẩy nở thành một bộ lạc và rồi trở thành một dân tộc để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế. Các tiên tri đã loan báo và hướng dẫn dân chúng về Đấng Xức Dầu sẽ xuất hiện để ban ơn cứu độ giải thoát. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoặch của Người qua Đức Kitô. Ngài là trung gian của vũ trụ vạn vật. Đây là một biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu cao siêu và linh thiêng đi vào cụ thể nơi lòng người. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng hạ thân làm người, gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Giêsu đã trải nghiệm một cuộc đời như mỗi người chúng ta. Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta về tất cả mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa vô hình và vô biên đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời trong cách thế và ngôn ngữ giới hạn của con người qua niềm tin tôn giáo, văn hóa, tổ chức xã hội và ý thức hệ chính trị… Chúa Kitô đã gặp gỡ con người xác phàm đầy sự yếu đuối, u mê và lầm lạc. Chúa Kitô đã phải đối xử một cách rất kiên nhẫn và nhân từ trong việc truyền rao chân lý Nước Trời.
Mầu nhiệm Nước Trời đã được gieo trồng trong thửa đất của tâm hồn con người. Tâm trí của con người không dễ dàng đón nhận những sự cao siêu trên trời vượt quá tầm trí hiểu. Chúa Giêsu đã thường lấy những hình ảnh cụ thể, thí dụ, tỉ dụ, dụ ngôn và ngụ ngôn để khải mở tâm trí con người để dẫn tới nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Đức Kitô dùng khoảng thời gian rất ngắn để hoàn thành tất cả những lời đã được các tiên tri loan báo: Công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời (Eph 1, 20). Chúng ta học biết Đức Kitô là con người lịch sử. Có nơi sinh và có chỗ từ trần. Ngài đã khai mở Nước Trời ban ơn cứu độ cho toàn dân. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều cách thế để ban ơn cứu độ. Đức Kitô không bị đóng khung hay giới hạn vào một niềm tin đặc thù nào, nhưng ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm thấy ơn cứu độ.
Khi Chúa Kitô hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Chúa Cha đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất, để mọi sự qui phục dưới chân Ngài: Chúa Giêsu tiến lại và nói với các ông rằng: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy (Mt 28, 18). Chúng ta tin nhận Chúa Kitô là nguyên thủy và là cùng đích. Thật khó hiểu, chúng ta rơi vào giữa sự huyền nhiệm đời đời và cụ thể thực nghiệm, giữa thần thiêng và vật chất, giữa vô hạn và giới hạn. Chúng ta không thể đong đo tính đếm con đường tâm linh. Với niềm tin vào Chúa Kitô là trung gian, thân phận con người mỏng dòn được cất nhắc lên làm con Chúa và được hứa ban sự sống trường sinh. Con người có chiều sâu ước muốn đời sống tâm linh vô hạn. Ngưỡng vọng một cuộc sống vĩnh cửu. Linh hồn hiện hữu thiêng liêng không bị tiêu diệt.
Chúa Giêsu mong muốn Tin mừng cứu độ được tiếp tục truyền rao đến muôn thế hệ. Ngài đã trao phó sứ mệnh này cho các tông đồ và những người kế vị: Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, là phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (My 28, 19). Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã ra đi tản mát mỗi người một nơi để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các ngài đã can đảm và không còn nhút nhát sợ sệt như trước nữa. Các ngài ra đi khắp vùng loan tin mừng cứu độ và mời gọi nhiều người trở về cùng Chúa. Các ngài đã nhiệt tâm rao giảng và dám dùng sự sống sự chết của mình để làm nhân chứng cho lời sự thật. Nhớ rằng, trước kia các tông đồ chỉ là những người chài lưới, ít học và dân giã. Nhưng với ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần tác động, các tông đồ đã hiên ngang chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác.
Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ và cách hiểu biết của loài người để diễn tả: Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài (Eph 1, 22). Chúa Kitô về trời là Ngài lên nơi đã ở trước. Ngài thuộc về thiên giới, còn chúng ta thuộc về hạ giới. Ngài không xuống trần để cai quản mà để phục vụ con người. Ngài hạ thân để chia sẻ tình yêu vô điều kiện. Ngài đã hiến mạng sống và yêu thương chúng ta đến cùng. Cách đơn giản, Chúa Giêsu muốn cứu chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỉ, sự dữ và tối tăm. Ngài muốn chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Ngài.
Chúng ta được tự do chấp nhận hay chối từ lời mời gọi của Chúa. Nếu thật tâm tìm kiếm và đi theo lối bước của Chúa, chúng ta cần lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống mình. Một ý tưởng minh họa: Khi du khách đi du lịch đến một đất nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền lưu hành tại nước đó. Tiền của chúng ta trên thế gian này chẳng có giá trị gì trên nước trời, nếu nó không đổi thành tiền của nước Trời, đó chính là các việc lành phúc đức có giá trị. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: Hãy bán gia sản và bố thí cho kẻ nghèo để mua Nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa về trời nhưng Chúa vẫn còn luôn hiện diện giữa chúng con. Chúa không bỏ chúng con mồ côi. Chúa đi là để chuẩn bị chỗ cho chúng con và sẽ trở lại đón chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa đến muôn ngàn đời.
22.Biệt ly hay hội ngộ?--An Phong
Phúc âm hóa thế giới đang diễn tiến ra sao? Đâu là "quyền lực lớn lao Người đã thi thố" (Ep 1:19) trong công cuộc Phúc âm hóa thế giới? Những vấn đề lớn đó sẽ được giải đáp trong biến cố Chúa thăng thiên hôm nay.
LỜI HỨA.
Cuối cùng "mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi cao Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến" (Mt 28:16) để "được cất lên ngay trước mắt các ông và được rước lên trời." (Cv 1:9.11) Thật là ấm cúng và cảm động, mặc dù cảnh ly biệt diễn ra giữa trời. Đức Giêsu "lìa bỏ các ông" (Cv 1:11) để thoát khỏi giới hạn vật chất và hiện diện sâu xa hơn khắp vũ trụ, nhất là trong tâm hồn tín hữu. Nhờ quyền lực Thánh Linh, Đức Giêsu có thể thực hiện lời hứa "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28:20) Sự hiện diện vô cùng sâu xa và đích thực đó như một bảo đảm vững chắc cho công cuộc Phúc âm hóa nhân loại.
Bảo đảm đó có thể tìm thấy nơi quyền lực của Đức Giêsu phục sinh. Quả thực, "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất" (Mt 28:18) sau khi sống lại từ cõi chết. Chính Chúa Cha đã trao quyền bính của Nước Thiên Chúa vào tay Chúa Con. Không một quyền lực nào lớn hơn Chúa Cha để có thể lấn át được quyền bính Chúa Con. Nếu thế, tại sao phải sợ trước những thách đố cuộc đời? Tại sao chưa dấn thân vào công cuộc Phúc âm hóa? Tại sao vẫn coi việc truyền giáo như công trình cá nhân hay lệ thuộc vào chức tước, tài năng, tiền bạc? Công cuộc Phúc âm hóa hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Đấng nắm trọn quyền bính vũ trụ mà thôi.
Sau khi đã củng cố niềm tin vào quyền bính độc nhất đó, Đức Giêsu trao sứ mệnh Phúc âm hóa cho các môn đệ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ." (Mt 28:19) "Hãy đi" ra khỏi nhà, khỏi cái tôi ích kỷ. "Hãy đi", chứ đừng nằm lì một chỗ mà hưởng thụ. "Hãy đi" đem Tin Mừng cứu độ đến muôn dân thuộc những nền văn hóa khác nhau. Phúc âm hóa không biên giới: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1:8) Phải mở rộng tầm nhìn mới mong Phúc âm hóa thành công. Tự bản chất, Phúc âm hóa không thể đi đôi với kỳ thị. Không biên giới nào có thể ngăn cản bước chân người rao giảng Tin Mừng. Nói khác, Tin Mừng thúc bách người tín hữu ra đi không ngừng. Kitô hữu là lữ khách suốt đời ra đi đến với mọi người qua con đường Giêsu. Đó là một sứ mệnh cao cả, cao cả như sứ mệnh Thày Chí Thánh.
Sứ mệnh đó do chính Thiên Chúa trực tiếp trao cho tín hữu ngày lãnh bí tích thanh tẩy "nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28:19), chứ không nhân danh bất cứ người nào. Sứ mệnh Kitô hữu có một nguồn gốc vô cùng sâu xa nơi Thiên Chúa và dựa trên "sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời." (Ep 1:19b-20) Chính nhờ sức mạnh đó, họ mới có thể "dạy bảo muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt 28:20) Sức mạnh đó đang đẩy mạnh công cuộc Phúc âm hóa thế giới, vì Kitô hữu đã "nên một với Người, nhờ được sống lại như Người" (Rm 6:5) vì họ đã "nhận được sức mạnh của Thánh Thần" (Cv 1:8) như một hồng ân "Chúa Cha đã hứa." (Cv 1:4)
Hồng ân vô cùng cao cả đó khiến họ có thể tham gia vào việc thánh hóa tha nhân vì được chia sẻ thừa tác vụ linh mục của Đức Giêsu khi "chịu phép rửa trong Thánh Thần." (Cv 1:5) Việc thánh hóa đạt tới cao điểm trong thánh lễ. Tham gia vào việc thờ phượng là làm cho lời Chúa nhập thể vào cộng đoàn và làm chứng cho Chúa. Nhờ đó, Kitô hữu có quyền thi hành tông vụ để tích cực xây dựng cộng đoàn Dân Chúa, theo nguồn ơn phục vụ là chính Thánh Linh Thiên Chúa đã ban cho toàn thể Giáo Hội. Sức mạnh Thánh Thần không ngừng tăng cường sự hợp tác trong cộng đoàn và làm cho Kitô hữu sống những giá trị Tin Mừng. Chính vì biết lắng nghe Thánh Linh với tâm tình cầu nguyện trong nội tâm và đời sống, Kitô hữu ngày càng có tinh thần phục vụ mạnh mẽ hơn. Càng phục vụ càng chia sẻ vương quyền với Đức Giêsu. Nhờ đó công cuộc Phúc âm hóa muôn dân càng mau hoàn thành.
CHIỀU HƯỚNG PHỤC VỤ HÔM NAY.
Quả thực, phục vụ là con đường đẹp nhất đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận sứ mạng của mình khi nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mt 20:28; Mc 9:35; Ga 13:4-15; Rm 5:6-21; Is 53:10-11) Bước theo Thầy Chí Thánh, Mẹ Têrêsa Calcutta đã hành động "như một mẫu mực Phúc âm hóa, công bố Tin Mừng bằng việc làm hơn là lời nói." Đó là lời Đức TGM Henry Sebastian D'Souza thuộc giáo phận Calcutta công bố khi hân hoan nhắc lại thông điệp Instrumentum Laboris. Mẹ Têrêsa đặt nơi mỗi cửa nhà nguyện của Mẹ những chữ "tôi khát" Đức Giêsu. Đây chính là những chữ ngày xưa "đã gợi hứng cho mẹ rời bỏ Loreto êm ấm mà liều mạng dấn thân vào những đường phố bất ổn ở Calcutta." Công cuộc dấn thân cho người nghèo đã đáp ứng cho cơn khát này (Zenit 21/04/ 02). Không thể giả điếc làm ngơ trước cơn gào thét rát cổ bỏng họng của các Giáo Hội Á Châu. Bao nhiêu dân cư trên lục địa mênh mông đó đang gào thét trước những cơn đói khát công lý kinh niên.
Làm giảm cơn đói khát đó, Giáo Hội sẽ hoàn thành được sứ mệnh Phúc âm hóa lục địa bao la này. Thực vậy, Đức TGM Calcutta nói tiếp: "Phúc âm hóa có thể mạnh lên nhờ chứng từ xã hội, không chỉ dưới hình thức bác ái như Mẹ Têrêsa, nhưng cũng nhờ những phương pháp phân tích quan trọng. Giáo Hội Á châu phải hành động để chống nạn mù chữ, yểm trợ quyền phụ nữ, và bảo đảm nền y tế tốt đẹp hơn." (Zenit 21/4/02) Đó là những nẻo đường Phúc âm hóa rất thực tế.
Chính Đức Giêsu đã không ra ngoài con đường ấy khi công bố Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Noi gương Thày Chí Thánh, Giáo Hội đang nỗ lực xây dựng "nền văn minh tình thương" như con đường Phúc âm hóa nhân loại. Nhưng làm sao có thể hoàn thành công cuộc lớn lao đó, nếu các Giáo Hội đàn anh Âu Mỹ cứ ngủ yên trước những gào thét công lý và hòa bình của các Giáo Hội đàn em nghèo đói? Bởi thế, Đức TGM Calcutta "kêu gọi các Giáo Hội đàn anh hãy đề cao trách nhiệm của mình tại Á châu. Họ cần dấn thân vào việc kiểm soát thương mại để bảo vệ những nước yếu kém; đề cao khía cạnh nhân bản trong thương mại, và xóa bỏ hay giảm thiểu những món nợ làm cản trở bước tiến nhiều quốc gia Á Châu." (Zenit 21/4/02) Đó là một chiều kích lớn trong nỗ lực Phúc âm hóa nhân loại.
Mặt khác, khi xâm nhập một lục địa đa văn hóa và tôn giáo như Á Châu, Giáo Hội chắc chắn gặp nhiều chống đối từ các tôn giáo lớn như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Do thái giáo. Đó là những thách đố lớn lao cho công cuộc Phúc âm hóa. Lớp áo Tây Phương đã che mất nét hấp dẫn Tin Mừng trước cái nhìn của các dân tộc Á Châu. "Chúng ta chỉ có thể trao cho Á Châu một sứ điệp khi các anh em Á Châu thấy những dấu chỉ Thiên Chúa hiện thân thực sự nơi con người chúng ta," (TGM Daniel Acharuparambil:Zenit 21/4/02) chứ không phải qua lớp áo Tây Phương xa lạ. Chỉ khi nào tìm thấy chính mình nơi Tin Mừng, người Á Châu mới đón nhận Chân lý như một sức mạnh giải thoát khỏi những cơ chế bất công dưới mọi hình thức.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam