Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 21

Tổng truy cập: 1363343

SUY NIỆM CỦA LM INHAXIÔ HỒ THÔNG

CHÚ GIẢI VÀ GỢI Ý SUY NIỆM CỦA LM INHAXIÔ HỒ THÔNG

Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.

Is 35: 1-10

Bài đọc I, trích sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.

Gc 5: 7-10

Trong Thư gởi cho các tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.

Mt 11: 2-11

Tin Mừng thuật lại việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giêsu đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giêsu khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.

 

BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)

Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.

  1. Những viễn cảnh diệu kỳ:

Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.

  1. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:

Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giêsu (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha thứ.

Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.

Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.

Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Kitô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.

  1. BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)

Thánh Gia-cô-bê mời gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).

  1. Tác giả và tác phẩm:

Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giêsu, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giêsu, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giêsu hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).

Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh Gia-cô-bê an ủi họ: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).

  1. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:

Đoạn trích Thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy chiếu đến lời của Chúa Giêsu: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên: “Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.

  1. Noi gương các ngôn sứ:

“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giêsu chứng thực sự kiện này: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5: 11-12).

Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam vào ngục.

  1. TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)

Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).

Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giêsu làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giêsu, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giêsu công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.

  1. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:

Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giêsu giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

  1. Câu trả lời của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giêsu nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giêsu đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giêsu có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.

Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Kitô. Chúa Giêsu cũng đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.

  1. Chúa Giêsu ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:

Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giêsu ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.

Bất ngờ cung giọng thay đổi, Chúa Giêsu công bố những lời gây bối rối cho người nghe: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giêsu không nhắm đến công đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giêsu khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước, tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giêsu nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).

Trong một bối cảnh khác, Chúa Giêsu sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giêsu đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giêsu không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giêsu không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.

43.         Đi đến cùng sứ vụ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.

Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.

Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.

Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.

Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.

Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).

Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.

Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.

Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).

Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.

Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).

Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ít-ra-en cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?

Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).

Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.

Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.

Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.

 

44.         Thánh lộ Chúa con luôn vững bước

(Suy niệm của Lm Jude Siciliano)

Các Thầy Giảng thân mến,

Hôm nay ngôn su Iasia tã những người đang đi trên “thánh lộ”. Họ đi đâu vậy? Họ không đi chơi vào ngày lễ, họ cũng không đi thăm bạn bè hay gia đình vào dịp cuối tuần. Sự thật họ là những người đi về nha.(Rất tiếc là đoạn bài đọc không thêm đến câu 8 và 9, vì 2 câu ấy nói họ đi trên “quan lộ”, và quan lộ ấy còn được gọi là “thánh lộ”, những người được cứu rổi sẽ đi trên con đường đó).

Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi trên địa cầu. Bài đọc hôm nay không chỉ nói đến những người bị đi đày ở Babylon, mà còn nói đến tất cả chúng ta. Thiên Chúa đang gọi họ về nhà, và vũ trụ cũng chia sẽ niềm vui với họ ” Sa mạc cùng đất khô cằn sẽ hân hoan với họ..” Chính thế, cảnh vật chung quanh đều thay đổi, đất sa mạc, và đất khô cằn sẽ tưng bừng nở hoa để người đi đường được mừng vui hớn hở trong cuộc hành trình.

Tuần trước trong bài đọc thứ nhất (Is11:8), chúng ta thấy cảnh vật thay đổi. Con người và thú rừng sống với nhau một cách hoà bình (“trẻ em vừa bú vừa chơi với rắn hổ mang”). Nhưng bài đọc hôm nay lại nói đến đất trời đầy hân hoan mừng đón dân Chúa trở về Sion. Đất trời trước kia là sa mạc hoang vu nay trở thành đồng xanh cỏ mướt để dân Chúa đi qua một cách dễ dàng không mệt mõi. Tại sao thế? Vi họ là những người đã mệt mỏi, di không vững, đã bị mất hết tinh thần, tâm tính chán chường. Vì họ đã sống chung đụng với những dân tộc không cùng một đức tin với họ, và lại còn chống đối Thiên Chúa của ho.

Chúng ta phải reo hò lên “Vinh quang thay Thiên Chúa ” cho mọi người đều biết, vì Thiên Chúa đã đến Ngài dọn một “thánh lộ” cho chúng ta đi qua. Thiên Chúa khai quang mọi sự cho đường về của họ được thảnh thơi, không mệt mỏi. Câu cuối cho chúng ta thấy một hình ảnh rất tốt đẹp “buồn rầu than van không còn nữa”. Dân Chúa sẽ mừng reo bước qua lẽ công chính, và những đau khổ sẽ lọt ra cửa sau.

Đức tin trình bày trong cựu ước dựa vào đất đai, vì Thiên Chúa đã hứa với dân Ngài là họ sẽ được sống trên mảnh đất phì nhiêu. Họ sẽ được sống yên lành. Ngôn sứ Iasia nhắc chúng ta nhớ là Thiên Chúa dựng nên trời đất vũ trụ để giúp chúng ta sống với tinh thần cộng đoàn đùm bọc, cùng dắt nhau về nhà cha của chúng ta trên trời. Bởi thế thường những hình ảnh về đất đai, vũ trụ được dùng để giúp chúng ta hiểu những ơn thánh của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Đạo Công Giáo là đạo dựa vào thiên nhiên vũ trụ, vì các bí tích là những dấu chỉ hành động của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta. Chúng ta dùng nước, muối, bánh, rượu v.v… trong nghi lễ thánh. Hiện nay những người bảo vệ thiên nhiên giúp chúng ta ý thức là người thời nay đang tàn phá thiên nhiên mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Hãy tưởng tượng nếu một ngày nào đó chúng ta không tìm ra nước để làm phép rữa tội thì chúng ta nghỉ sao? Và nếu chỉ có nước dơ bẩn thôi thì chúng ta nghĩ gì về phép rữa để làm sạch tâm hồn chúng ta? Chẳng lẻ chúng ta phải đi mua nước chai về để làm phép rữa tội chăng?

Hiện nay không phải ai trong chúng ta cũng đang gặp khó khăn đi trên đường đời. Trong số những người tiến về quê trời có người mạnh, có người yếu, Người mạnh được khuyên nên “đưa tay giúp người yếu”. Chúng ta là thành phần của một cộng đoàn đang cùng nhau hành hương về quê thật. Hãy nhìn chung quanh chúng ta, xem có ai cần sự giúp đỡ, cần một lời khuyên, cần thuốc để thêm nghị lực, cần một ít thực phẩm cho gia đình, hay cho một nhóm người được gia nhập vào sống trong cộng đoàn để cùng đi với chúng ta.

Những đoạn sách của ngôn sứ Isaia nhắc tôi nghĩ đến những bậc cha me có con bi sợ hãi sau khi té bị trấy xướt. Cha mẹ thường ẵm con vào lòng, cho ngồi trên bắp đùi để nói nhỏ rằng: “Đây, mẹ đây sẽ không sao đâu con”. Nhưng đứa bé bị thương vẫn còn sợ sệt và vẫn nghĩ là mọi sự chưa được tốt đâu. Nhưng lời nói nhỏ nhẹ va và triều mến của cha mẹ đã an ủi em bé và thêm hy vọng cho em. Rồi em cũng tin là cha me nói thật. Và em sẽ cam thay được an ủi mặc dù đầu gối vẫn còn đau và máu còn chảy. Như chúng ta, chúng ta vẫn thường đọc lời kinh sau: “chúng con ở nơi khóc lóc than thở nài…”. Chúng ta không biết và không trông thấy được tương lai sẽ như thế nào. Nhưng chúng ta nghe lời an ủi nhẹ nhàn của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia, và chúng ta giữ niềm hy vong.

Trên trái đất này không có mấy nơi được đầy hoa lá xanh tươi đâu.”Đất sa mạc và đất cằn khô” không có gì để hân hoan cả. Và thế gới này còn biết bao nhiêu người đang sống trong cảnh “ sa mạc” màn trời chiếu đất, đau khổ về tình cảm cũng như về vật chất và tinh thần. Nhiều người đang đau buồn và than khóc. Những lời kêu than của nhiều người chung quanh chúng ta gây nên những hình ảnh đau buồn, và sự thật là như thế. Nhưng lời của ngôn sứ Isaia vẫn mạnh dạn nói lên tuong lai mờ mịt của chúng ta. Còn có nhiều chuyện sẽ đến mà chúng ta chưa biết được. Kinh thánh hôm nay, cho chúng ta những hiện tượng khác hẳn những hiện tượng của địa cầu nơi chúng ta đang sống với đầy u ám tối tăm. Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta rằng “các con ơi, đây, Chúa đây, rồi mọi sự sẽ không sao đâu”. Nhưng những bài đó cũng cho chúng ta một khái niệm về tương lai và cũng an ủi chúng ta là Thiên Chúa quyết định hoàn thành công việc tạo dựng của Ngài lien tục đến lúc cuối bởi lòng thương yêu vô bờ bến của Ngài. Thiên Chúa sẽ thưởng công cho những việc làm tốt lành và nhờ đó sẽ thắng mọi sự dữ đã xảy ra.

Vậy thử hỏi chúng ta có nên buông tay ngồi đợi đến lúc Thiên Chúa giải quyết mọi đau khổ cho chúng ta hay không? Không đâu, vì theo Kinh thánh mà chúng ta được nghe mỗi tuần; chính những gì chúng ta phải làm trong thời gian hiện tại sẽ nói lên tương lai của chúng ta. Chúng ta phải cố gắng sống đổi mới để sau này Thiên Chúa sẽ đem đến an vui cho chúng ta. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm những gì như lời các ngôn sứ và lời Chúa Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Thiên Chúa chúng ta muốn. Nhờ đó, chúng ta hãy thực hiện cuộc sống đầy thương yêu đối với xa hoi, và chăm sóc vũ trụ và môi trường thiên nhiên mà Thiên Chúa đã dựng nên, vì cả xã hội loài người cùng môi trường thiên nhiên và vũ trụ là những tạo vật sẽ đón Thiên Chúa ngày sau hết.

Chúng ta biết tương lai là của Chúa, nhưng trong đời sống hiện tại chúng ta có thể nếm đựơc chút ít mùi vị của tương lai của Chúa như thế nào. Chính Chúa Giêsu nói rõ cho các môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả biết sứ vụ của Ngài là: “mù được sáng, què được đi, phung cùi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được nghe báo tin mừng”. Đó là những việc Chúa Giêsu đã bắt đầu, và chúng ta phải tiếp tục làm như Ngài cho đến ngày Ngài trở lại. Chúng ta phải tìm cách rao giảng, đem sự sáng đến cho người mù, giúp kẻ khổ đau được ra khỏi cảnh đau thương để có thể thăng tiến, đón nhận những kẻ sống bên lề xã hội, và đem tin mừng đến cho những ai chưa được biết và không có hy vọng về tương lai.

Tuần trước thánh Matthêu nói về thánh Gioan Tẩy Giả là người dọn đường cho đấng Messia mà dân Do Thái trông đợi. Thánh Gioan nói nước trời đã gần đến. Gioan là một tiền hô mạnh dạn cho Ngôi Lới của Thiên Chúa. Như chúng ta đã nghe tuần trước: Thánh Gioan chỉ kêu gọi dân chúng nên hối cải nhưng ông không thể đem đến cho họ điều họ cần nhất là được ơn tha tội. Và phúc âm hôm nay tiếp tục câu chuyện thánh Gioan trong tuần trước.Thanh Gioan báo tin là khi đấng Messia đến, Ngài sẽ “đem cái sàn để rê lúa, Ngài sẽ sàng sảy sạch lúa của Ngài…còn thóc lép thì Ngài sẽ thiêu trong lửa không hề tắt.”(3:12). Đáng sợ thật! Thánh Gioan có thất vọng về Chúa Giêsu không? Đâu là những thóc lép, và lửa thiêu mà thánh Gioan đã tiên đoán?

Chúa Giêsu cũng kêu gọi dân chúng hãy hối cải như thánh Gioan đã kêu họ. Nhưng với lời kêu gọi hối cải, Chúa Giêsu hứa đem lại cho họ ơn tha thứ và ơn chữa lành. Lúc đó thánh Gioan đang ở trong tù. Ông ta không thể hỏi thẳng Chúa Giêsu được, vì thế nên ông ta mới gởi môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông thắc mắc nhất là: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người nào khác”(11:3)

Có thể Chúa Giêsu không phải là một quan tòa khắc khe nhu thánh Gioan đã tưởng tượng. Nhưng Chúa Giêsu đã gởi lại một câu trả lời đầy hy vong: Ngài là Đấng đã đến theo lời ngôn sứ Isaia(Is 29:18-19) nói trong bài đọc hôm nay, để cứu dân Ngài nhờ sự tha thứ của Thiên Chúa. Đây Thiên Chúa xét xử chúng ta qua Chúa Giesu với lòng từ bi nhân hậu. Lối xét xử với lòng từ bi là quyết đinh của vị thẫm phán của chúng ta.

Chúng ta sống trong hy vọng của mùa vọng và tin tưởng vào lời Thiên Chúa đã hứa. Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, nên chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện đời sống của Chúa Giêsu trên trần gian. Những gi Chúa Giêsu nói về Ngài và sứ vụ của Ngài là chữa người mù, người què và người phung cùi v.v… thì chúng ta phải tiếp tục sứ vụ ấy. Mùa Vọng khuyên nhủ chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Kitô trong thoi đại chúng ta. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Gioan rất rõ là Ngài không lánh khỏi trần gian, Ngài không đến để gọi một số người theo Ngài để sống một đời vương giả theo lề luật riêng của mình, và cũng không lập một đạo binh để chống đối ai. Sứ vụ của Chúa Giêsu là đối phó với sự dữ bằng cách tha thứ và chữa lành. Lời ngôn sứ Isaia đã được chứng minh khi dan chúng gặp Chúa Kitô, “Đây là Thiên Chúa các ngươi…Ngài đến để cứu các ngươi”. Bây giờ, chúng ta là giáo hội của Chúa Kitô, chúng ta phải “ra đi rao giảng” những điều chúng ta đã thấy và đã nghe về Chúa Kitô. Chúng ta thi hành sứ vụ này bằng cách: cho những người mù trong tân hồn được thấy. cho những người bi bại liệt trong tâm linh và thể xác được bước đi, ân cần tìm hiểu và nói chuyện với những người tách khỏi giáo hội, xa hoi. Tìm cách đặt giá trị con người vào đời sống của họ. Làm như vậy chúng ta sẽ như Chúa Giêsu trở nên người đem tin mừng đến cho người nghèo khó và người bị áp bức.

 

45.         Thầy có thật là Đấng phải đến không?

(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.

Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14) .

Bầu khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:

  1. Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận của Người.

  2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.

  3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.

  4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.

  5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.

Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).

Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.

Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.

  1. 2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3);

2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6);

3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).

  1. 3.- Vài điểm chú giải

– Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban mộtphép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).

– phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).

  1. 4.- Ý nghĩa của bản văn

Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có mộtngười mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).

Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.

* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)

Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?

Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.

* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)

Đức Giêsu không cung cấp mộtcâu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).

Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như mộtngười đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.

Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.

* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)

Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như mộtcây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là mộtngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).

Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu mộtlần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có mộtý nghĩa duy nhất.

  1. + Kết luận

Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.

  1. 5.- Gợi ý suy niệm

  2. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ mộtơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là mộtthẩm phán nghiêm khắc nhưng là mộtvị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.

  3. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.

  4. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi mộtvài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.

  5. Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?

 

46.         Chú giải của Noel Quesson

Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.

Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả… và luôn có liên quan với Đức Giêsu.

Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng “Nước Thiên Chúa” và làm phép rửa cho Đức Giêsu …

Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…

Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:

Mt 14,1-13 Cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.

Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng “kêu’ của ông, do “Tin Mừng” của ông: “Nước Trời đã gần kề!”.

Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái “hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: “đức tin” bị nao núng… Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: “tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả… Giêsu của anh đâu phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.

Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù… một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng người”. Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.

Sự thất vọng? Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.

Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo “ý muốn của chúng ta” và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại “quá lặng lẽ thế?

Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?

Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.

Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.

Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói “Tôi là Người phải đến”. Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.

Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là “loại Mêsia nào”: Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác… Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại… người nghèo được rao giảng Tin Mừng… Đấy chính là niềm vui mới!

Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với “chính ta”: bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?

Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không phải đợi một ai khác nữa’.

Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của “Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.

Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi

Bản văn Hy Lạp nói ở đây: “Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng “skandalon” là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội “vấp ngã” đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng… những cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một “sự vật” chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, “ngôn sứ vĩ đại nhất”… được mời để làm cho đức tin lớn lên, được mời để không bị “vấp phạm” vì Đức Giêsu.

Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.

Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.

“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.

Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến

Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta”. Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.

Đức Giêsu -khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!”. Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến “Đấng chuẩn bị sứ giả”. Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.

Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.

Chúng ta lặn ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có “trước” người và “sau’ người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu… Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của “những người bé mọn”: tự khi Thiên Chúa nhập thể làm “đầy tớ”, thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên “bé mọn”. Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.

home Mục lục Lưu trữ