Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 68
Tổng truy cập: 1355896
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 22 TN_B
Jorathe Nắng
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi các ông không làm theo những gì Luật Môsê quy định. Ngài đã làm như thế không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Vì thế mâu thuẫn giữa Ngài và các Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ngày càng căng thẳng.
Các ông Biệt Phái và Kinh Sư là giai cấp lãnh đạo, được trọng vọng trong xã hội tôn giáo Do Thái, và tất nhiên họ phải bảo vệ Luật Môsê một cách triệt để, nếu không nói là cực đoan, vì chỉ có Luật Môsê mới đảm bảo hữu hiệu vị thế và lợi thế của họ. Chính vì thế, bất cứ ai vi phạm Luật Môsê đều bị họ lên án, không kể gì Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.
Thực ra Đức Giêsu không chủ trương, cũng không kích động các tông đồ chống lại Luật Môsê và Truyền Thống của cha ông; trái lại Ngài công nhận và tuân giữ. Nhưng Ngài muốn đặt lại cho xã hội tôn giáo lúc bấy giờ, cũng như cho các ông Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ý nghiã, mục đích của Truyền Thống, Lề Luật :
1. Truyền Thống, Lề Luật phải phục vụ hạnh phúc của con người:
Điểm thiết yếu Đức Giêsu đặt ra cho các ông Biệt Phái, Luật Sĩ là mục đích của Truyền Thống, Lề Luật. Nếu Truyền Thống, Lề Luật không đem lại hạnh phúc cho con người, không làm cho con người được sống xứng danh con người, không tạo điều kiện để nhân phẩm được bảo vệ và phát triển, không xây dựng đời sống con người ngày càng trở nên tốt đẹp, thoải mái hơn, nhất là không phát huy tình huynh đệ, tương trợ giữa người với người thì Truyền Thống, Lề Luật ấy không đáng được tồn tại, gìn giữ.
Có rất nhiều Truyền Thống, Lề Luật không góp phần xây dựng đời sống con người, không tạo điều kiện cho cuộc đời đáng sống hơn, nhưng nghiền nát, xóa bỏ con người và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt, nặng nề. Dưới áp lực này, con người và hạnh phúc của con người không còn là mục tiêu phục vụ của Truyền Thống, nhưng Truyền Thống là ông chủ khắc nghiệt của con người, mà mọi ý muốn của ông chủ khó tính phải được đầy tớ là con người thoả mãn, đáp ứng chính xác, trọn vẹn, từng chi tiết. Cuộc sống làm người và hạnh phúc của xã hội loài người không còn là đích điểm của Lề Luật, nhưng Lề Luật truy sát, khống chế xã hội và biến những con người sống trong xã hội đó thành những tù nhân bất hạnh.
Chủ nghiã vị luật, nghiã là chủ nghiã thượng tôn Lề Luật, thần tượng Lề Luật, coi Lề Luật là chân lý tuyệt đối, uy lực tuyệt đối, phán quyết tuyệt đối và cho Lề Luật quyền sinh sát trên con người là chủ nghiã cực kỳ phi nhân, vì hoàn toàn loại bỏ con người, phủ nhận chỗ đứng không thể thay thế, hoán nhượng của con người, và sẵn sàng nhẫn tâm khước từ hạnh phúc của con người để mù quáng phục vụ một hệ thống Lề Luật, một cơ chế Truyền Thống lạnh lùng, vô cảm, xa rời nhu cầu và khắc khoải đích thực của con người.
Con người ở trong cơ cấu vị luật, cơ chế suy tôn Truyền Thống ấy sẽ chỉ còn là những thân phận nô lệ của Lề Luật, tôi đòi của Truyền Thống, bởi chủ nghiã và khuynh hướng vị luật cực đoan, mù quáng này thường nhân danh con người để củng cố Lề Luật, Truyền Thống, khi con người vừa được gọi tên, tuyên dương là công chính, đạo đức theo tiêu chuẩn đánh giá của Truyền Thống, Lề Luật, vừa bị Truyền Thống, Lề Luật phủ nhận, quật ngã, chà đạp.
Đức Giêsu chống lại chủ nghiã vị luật này, vì con người bị xúc phạm, nhân phẩm bị tổn thương, hạnh phúc bị chối bỏ. Với Ngài, con người là quan trọng hơn hết dưới mắt Thiên Chúa, và Lề Luật, Truyền Thống, tuy cần thiết nhưng phải nhắm đến hạnh phúc của con người:
Sau khi chữa lành một người bất toại đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bétdatha, “hôm đó là ngày sabát, người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh” : “Hôm nay la ngày sabát, anh không được phép vác chõng!” Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : Anh hãy vác chõng mà đi”!.. “Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát” (Ga 5, 9-10.16).
Luật Môsê quy định cả đến vác chõng về nhà, sau khi được chữa lành cũng không được làm trong ngày sabát. Tinh thần vị luật quá đáng khi nghiêm cấm làm việc trong ngày sabát đã bị Đức Giêsu chống lại khi Ngài qủa quyết : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) trước đám đông người Do Thái đang phẫn nộ lên án Ngài vì Ngài đã chữa bệnh này sabát, trái với Lề Luật.
Đức Giêsu cũng cho những người Do Thái thời đó hiểu rằng : việc tốt lành, thiện hảo là điều Thiên Chúa mong ước con người thực hiện cho nhau, nên Luật ngày sabát không thể ngăn cấm những việc làm bác ái, tương trợ , khi Ngài đặt cho họ câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi”? (Mc 3, 4), khi Ngài chữa người bị bại tay trong ngày sabát.
Nhưng rõ nét hơn là khi Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua một cánh đồng lúa.
“Dọc đường, các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pharisiêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát!” (Mt 12,1-2). Sau khi trưng dẫn cho người Pharisiêu câu chuyện vua Đavít đã cho phép các thuộc hạ vì đói được ăn bánh đã cung tiến Thiên Chúa, bánh mà chỉ các tư tế mới được ăn và là điều Lề Luật nghiêm cấm, Đức Giêsu đã khẳng định : “Con người làm chủ ngày sabát” (Mt 12,8), chứ không phải ngày sabát làm chủ con người. Điều đó có nghiã Lề Luật được làm nên để phục vụ con người, để con người được sống trong trật tự, an bình, hạnh phúc, chứ không để khống chế, áp đảo, giam hãm, hủy diệt con người.
Tóm lại, Đức Giêsu không chủ trương hủy bỏ Lề Luật, nhưng Lề Luật, Truyền Thống chỉ có giá trị khi phục vụ con người, giúp con người sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc. Lề Luật là phương tiện để con người trưởng thành trong đức ái, huynh đệ. Lề Luật cần cho xã hội, với điều kiện Lề Luật không vi phạm, làm tổn thuơng con người trong xã hội ấy. Vì thế, Lề Luật phải luôn giữ được tính nhân văn, để luôn luôn có thể khéo léo uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết hầu giữ được ý nghiã, mục đích của Lề Luật là phục vụ con người, thăng tiến đời sống con người và mưu cầu hạnh phúc đích thực cho con người.
2. Tinh thần vị Truyền Thống, Lề Luật có thể làm phân liệt nhân cách :
Khi dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói với những người Pharisiêu: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dậy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,6-7) , Đức Giêsu đã nói lên nguy cơ phân liệt nhân cách, nói cách khác,nguy cơ giả hình ngay tự bản thân của người sống tinh thần vị luật cách mù quáng, cực đoan.
Thực vậy, một khi quá đóng khung vào hệ thống rườm rà, trói buộc và mang tính trình diễn hời hợt bên ngoài của Truyền Thống, Lề Luật, người ta sẽ dễ dàng và mau chóng bỏ quên những gì chân thực từ trái tim, những sự thật đáng trân trọng của tâm hồn, những rung cảm trung thực của tấm lòng, những tốt đẹp khó tìm thấy của tim óc. Bị cuốn hút vào chủ nghiã duy Lề Luật, người ta sẽ chỉ chăm chú soi từng nét chữ trong Lề Luật, cẩn thận giữ từng dấu phẩy của quy tắc, nghiêm khắc với từng chi tiết vụn vặt, cỏn con của Truyền Thống, mà quên đi chính con người của mình và anh em. Tình trạng phân liệt giữa bên ngoài và bên trong, giữa hành động và ý nghĩ, giữa đòi hỏi của Lề Luật và thao thức vi tha thầm kín làm nên mâu thuẫn nội tại rất căng thẳng. Để làm dịu căng thẳng của mâu thuẫn nội tại này, người ta bắt buộc phải giả dối, sống nhiều mặt, và đó là hiện tượng giả hình mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên án (x. Mt 23).
Cũng vì giả hình mà môi miệng bai bải yêu mến Chúa, lải nhải các điều răn, nhưng tâm hồn thì trống vắng, trái tim thì lạnh nhạt.Cũng vì giả hình mà bên ngoài thì cung kính lễ nghi, nhưng bên trong thì thờ ơ, chai đá. Cũng vì giả hình mà chu chắm tuân giữ truyền thống, nhưng lại “khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa” (Mc 7,9).Chính Đức Giêsu đã công khai lên tiếng : “Như thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lờI Thiên Chúa” (Mc 7, 13).
Thực vậy, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta: điều làm chúng ta bất hạnh, và ngăn cản chúng ta hiến thân cho nhau, chính là chúng ta sống giả dối và giả hình là thứ giả dối đã đi vào chiều sâu của bản ngã. Chính Đức Giêsu đã muốn xua đuổi vi trùng giả hình này ra khỏi đời sống chúng ta khi Ngài phân tích sự thật bên trong và bên ngoài của con người:
– Bên ngoài là vùng của những gì được biểu lộ, trình diễn; cũng là vùng của mặt nạ, những mặt nạ mà chúng ta muốn đeo cho mình, những hình ảnh mà chúng ta mơ ước và tự phóng các hình ảnh lý tưởng ấy qua lời nói, việc làm của chúng ta.
– Bên trong là vùng của sự thật, vùng của chính hiệu, chính gốc, vùng ở đó con người thật của chúng ta được xuất hiện “nguyên con” trước mặt Thiên Chúa, là nơi hạt giống Lời Thiên Chúa được gieo vãi. Bên trong còn là nơi của những quyết định, chọn lựa. Nhưng bên trong cũng là sào huyệt của ganh ghét, hận thù, ích kỷ, tham vọng thống trị, ham muốn sở hữu : “Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tang, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20-23).
Vâng, mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong, giữa sự thật chúng ta là và những điều chúng ta mơ ước, giữa những gì chúng ta có và những điều chúng ta khát khao và tự khoác lên mình là sự thật không thể chối cãi.Vì thế, giả hình là cám dỗ nặng nề và liên lỷ của mỗi người, vì ai cũng cần một dáng vẻ ăn khách, một nhân thân hấp dẫn, một quá khứ thành tích, một hiện tại vinh quang, một tương lai hứa hẹn để sống được với đời nhiều tranh giành, đấu đá. Chúng ta cũng dễ rơi vào giả hình, vì thường xuyên chúng ta cũng cần giả hình với chính mình, khi mình chẳng có gì để có thể tự tuyên dương, tự biện minh, tự bào chữa. Đó là thảm cảnh rất bi đát của đời sống con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi.
Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi tình trạng phân liệt vì giả hình, khi chúng ta nhận ra: sẽ không có sự thật toàn diện, bao lâu con người không lắng nghe Thiên Chúa hằng sống và chân thực; sẽ không có tình yêu đích thực, bao lâu tình yêu của chúng ta không gắn kết vào chính Chúa là nguồn Tình Yêu; sẽ không có đời sống chính hiệu, nguyên gốc Tự Do, bao lâu chúng ta không để Thiên Chúa hành động và dẫn dắt định mệnh đời chúng ta. Được dựng nên cho Thiên Chúa, chúng ta không thể hạnh phúc nếu không thuộc về Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho chúng ta thực sự tự do, khi giao hoà trong chúng ta nhũng gì bên ngoài với những gì bên trong, những gì được trình ra bề ngoài và những gì được giữ kín ở trong.Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấy khỏi chúng ta những mặt nạ mà không làm chúng ta thất vọng; cũng chỉ một mình Ngài mới có thể chữa lành căn bệnh ảo tưởng, giả hình trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới có đủ khả năng và nhiệt huyết để yêu mến. Chính Ngài đã vạch cho chúng ta con đường, tuy hẹp, nhưng là con đường chân thật dẫn đến Hạnh Phúc thật (x. Mt 5,1-12).
Để kết luận, chúng ta cần lưu ý sự cần thiết của Truyền Thống, Lề Luật, nhưng đồng thời cũng cẩn trọng trước cám dỗ của chủ nghiã vị Truyền Thống, vị Lề Luật, nghiã là chỉ biết Lề Luật, chỉ tôn thờ Lề Luật, mà không quan tâm đến con người và ích lợi nhân sinh cũng như thiêng liêng của con người. Vì Lề Luật có thể trở thành nguyên nhân của tình trạng giả hình, phân liệt nhân cách, nhất là miệng ca tụng Chúa, nhưng lòng thì xa Chúa ngàn dặm.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta được gọi vào đời để “yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người”, nên con người trong tất cả chọn lựa phải được yêu mến vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa .Thế nên, cho dù là Lề Luật nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bỏ quên hay làm tổn thương con người, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
I. Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
II. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu chuyện để trả lời. Chuyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người.
Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam