Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1361716

TA LÀ CỬA ĐÀN CHIÊN

TA LÀ CỬA ĐÀN CHIÊN

 

I. Ý CHÍNH:

Qua dụ ngôn về "Cửa chuồng chiên" trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giới thiệu vai trò độc đáo của Người và phải qua Người mới được ơn cứu độ, vì Người là Đấng ban sự sống và nuôi dưỡng nhân loại.

II. SUY NIỆM:

Để giúp hiểu ý nghĩa dụ ngôn này, chúng ta nên biết rằng:

- Cựu Ước đã báo trước Đấng Thiên sai sẽ đến như một mục tử Người sẽ chăn dắt (Mk 5, 3) " Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 23).

- Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử cho mình. Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các chiên lạc của Israel (Mt 15,24; Lc 19,10). Riêng trong Tin Mừng thánh Gioan, bài giảng về người chủ chăn nhân lành đã mở đầu Giáo Hội để rồi sau này thánh Phêrô tiếp tục sứ mệnh chăn dắt đó (Ga 21,16).

1) “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi":

Đây là một kiểu nói mà thánh Gioan thường dùng, để nhấn mạnh tính xác thực của một điều gì đã có trước, thực vậy, dụ ngôn “cửa chuồng chiên" là nối tiếp câu chuyện người mù từ bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa lành, là để minh chứng Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, vì vậy phải qua Người mới được ơn cứu độ.

“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên...":

+ Chuồng chiên là hình ảnh quen thuộc của đời sống dân Do thái du mục. Ở đây Chúa Giêsu nói đến Giáo Hội ở trần gian và nước Chúa ở trên trời, tức là nước siêu nhiên.

+ Cửa chuồng chiên: mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào, ai muốn được vào Giáo Hội để hưởng Nước Trời là ơn cứu độ thì phải qua duy một cửa chính mà thôi, cửa này chính là Chúa Kitô như Người đã tự nhận: “Ta là cửa chuồng chiên". Ở đây khi nói đến các mục tử giả hiệu, và theo toàn thể mạch văn, Chúa Giêsu có ý nhắm tới các người Biệt phái và Ký lục là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa một uỷ nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đoạt đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn là quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu.

2) "Còn ai qua cửa mà vào là kẻ chăn chiên":

Ở đây có ý nói đến những mục tử chân chính vào cửa đàng hoàng vì đã lãnh sứ mệnh.

+ "Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho...":

Người mục tử chân chính là người đã được uỷ nhiệm chính thức. Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh của Người, vì Người chỉ đến theo lệnh và uỷ nhiệm thần linh mà Người đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1, 31-34).

+ "Và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy...":

Chỉ có chiên là những tín hữu đích thực, mới biết ngoan ngoãn nghe theo tiếng vị mục tử của mình là Đức Giêsu, vì "Phàm ai nghe và học nơi Cha thì đến với Đức Giêsu bằng đức tin" (Ga 6, 45; 8,47).

+ "Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên"

Ở đây muốn nói đến những kẻ thực sự thuộc về chủ chăn và đáp theo tiếng Người gọi và chỉ theo một mình Người, điều này được biểu lộ qua ơn gọi của các vị tông đồ (Ga 1,35-49) như khi Chúa gọi Philippê "Hãy theo Ta" (1,43). Qua tiếng gọi đặc biệt này Người "dẫn ra" tức là kéo họ ra khỏi thế gian (Ga 15,19)

+ " Khi đã lùa chiên mình ra ngoài..."

Khi đã kéo họ ra khỏi thế gian, Người tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ là Giáo Hội và tới Chúa Cha. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Người, các con chiên "theo Người" "làm tông đồ Người” và họ biết tiếng Người: tức là đức tin cho họ một nhận thức thiêng liêng, nhờ đó họ phân biệt trong tiếng nói của vị mục tử, Chúa Giêsu, một âm vang trung thực của tiếng nói Cha trên trời, và biết rằng qua miệng của Chúa Giêsu, chính Chúa Cha đang nói (Ga 14,10).

+ "Chúng sẽ không theo người lạ...":

Chính sự nhận thức thiêng liêng này, tức là đức tin, khiến họ không làm môn đệ những kẻ chăn chiên xa lòng, chẳng hề được Thiên Chúa uỷ nhiệm vì không nhận ra nơi họ giọng nói của những kẻ này âm vang của lời Thiên Chúa, nên họ chạy chốn, họ chạy chốn vì những kẻ chăn chiên giả này đến để mưu sát trộm cắp và tiêu diệt đàn chiên. Ở đây muốn ám chỉ đến những người lãnh đạo dân Do Thái như các Biệt phái Luật sĩ đã gieo rắc tai hại cho dân vì những gương xấu và lầm lạc của họ.

3) "Chúa Giêsu phán dụ ngôn này..."

Những người Biệt phái mà dụ ngôn này nhắm tới không nhận ra được bài học Chúa Giêsu dậy họ: bởi vì chiên lạ không nghe tiếng của mục tử chính danh "Các ngươi không tin vì các ngươi không thuộc đàn chiên của Ta" (Ga 10, 26).

4) "Ta là cửa chuồng chiên":

Vì những người nghe không nhận thức được bài học dụ ngôn nên Chúa Giêsu nói thêm và Ngài giải thích bằng cách Ngài tự nhận mình là cửa chuồng chiên để nêu lên chân lý phải tin nhận vào Ngài mới được cứu độ, vì chỉ có Ngài là cửa duy nhất của chuồng chiên.

5) "Tất cả những kẻ đã đến trước...":

+ "Đến trước" ở đây không có ý nhắm tới thời gian cho bằng nhắm tới thái độ của việc làm, bình thường thì sáng sớm người chăn chiên đi thăm chuồng chiên, nếu có ai đến trước đó, nghĩa là khi còn ban đêm, thì đích thực họ là kẻ trộm cướp, tìm những lúc tăm tối để là những việc ám muội.

+ Dùng kiểu nói "Những kẻ đến trước" ở đây Chúa Giêsu có ý nói đến các Tiên tri Cựu Ước vì theo thời gian, họ đã xuất hiện trước Chúa Giêsu. Nhưng có thể Chúa nhắm những người Do thái hoặc dân ngoại tự phụ dùng sức mình mà đem lại cho nhân loại sự hiểu biết về Thiên Chúa và ơn cứu độ. Nhưng cũng có thể Chúa nhắm tới những người Biệt phái (Mt 23, 1-36; 9,36; Mc 6,34) và các thủ lãnh tôn giáo Israel đã gạt dân của họ xa con đường sống, tức là các Do thái đã tàn sát các Tiên tri, các Tiến sĩ thời Chúa Giêsu để ngăn chận không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi Nước Trời.

6) "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào...":

Chủ đề ‘cửa’ là một chủ đề rất phổ thông trong truyền thống Do thái (St 28,17; Tv 78,23; Mt 7,13-14).

+ Kiểu "Ta là cửa" ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến tính cách của ơn cứu độ vì Ngài nói "Ta là cửa" chứ không nói “Ta là cửa chuồng chiên" như ở trên.

+ Chữ "Cửa" ở đây muốn nói lên ý nghĩa như một lối dẫn đưa vào các thực tại Thiên Quốc. Khi mở thì chữ "Cửa" diễn tả một thái độ mời gọi, đón nhận. Khi đóng, đối với bên trong thì diễn tả một sự che chở bảo vệ, đối với bên ngoài thì diễn tả sự từ chối, thanh lọc.

+ "Người ấy sẽ ra vào"; "Ra vào" là kiểu nói Do thái có nghĩa là đi lại tự do.

Ở đây muốn nhấn mạnh sự cần thiết và quan trọng của việc phải tin vào Chúa Giêsu Kitô mới đem dân Chúa vào sự sống bằng cách cho họ tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Ga 3,16-17)

Dân Chúa được cứu thoát nhờ Đức Giêsu giải phóng họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ma quỷ, họ được vui hưởng tự do đích thực của con cái trong nhà Cha (Ga 8, 33-34). Cũng trong Chúa Kitô dân chúng tìm được thức ăn no thoả là bánh và Nước Hằng Sống, có sức dập tắt vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (Ga 6,35; 4,14).

7) “Kẻ trộn có đến thì chỉ đến để ăn trộm…”

+ Ở đây Chúa Giêsu có ý nhắm tới các Ký lục và Luật sĩ. Họ là những mục tử giả hiệu, dù không được Thiên Chúa uỷ nhiệm, họ vẫn tự cai trị dân Chúa vì họ ưa tìm vinh quang và quyền lợi bản thân hơn là ưu tiên đến tiện ích cho dân Chúa (Mt 23,4-7).

+ Họ sát hại và phá huỷ dân Chúa vì những gương xấu của họ, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với họ “khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại…” (Mt 23,3-13).

8) "Còn Ta, Ta đến để chúng được sống...":

Chúa Giêsu được sai đến để cứu chuộc dân Chúa và ban cho dân Chúa của nuôi là Bánh và Nước Hằng Sống.

* Cần lưu ý:

a) Từ Chúa Giêsu mục tử đến các tông đồ mục tử.

Sau khi về trời công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa vẫn được tiếp tục "Chúa là mục tử hằng hữu không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các tông đồ Chúa luôn che chở giữ gìn, để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa (Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ).

b) Ngày Chúa nhật IV Phục Sinh còn gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành (Lý do là vì các bài Tin Mừng đều trích từ Gioan 10, nội dung nói về Chúa Chiên Lành) được chọn làm Ngày Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.

III) ÁP DỤNG:

* Áp dụng theo Tin Mừng:

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn dậy chúng ta phải tin tưởng vào sự nuôi dưỡng che chở và giữ gìn của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu Kitô, và đồng thời phải biết tuân phục sự hướng dẫn và chăm sóc của các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa.

* Áp dụng thực hành:

Nghe Lời Chúa nói:

1) "Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên": Chúa dạy chúng ta phải biết phân biệt những người chăn chiên "không qua cửa mà vào" tức là những người không được Giáo Hội chính thức uỷ nhiệm như những giáo sĩ giả, những giáo sĩ không tuân phục Giáo Hội, hoặc những vị phá giới, đồng thời cũng cần phân biệt những lý thuyết những ý thức hệ ngược với đường lối Chúa.

2) Vị mục tử đích thực là người được Giáo Hội chính thức bổ nhiệm đồng thời phải có tư cách như tận tâm chăm sóc yêu mến đoàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và nhất là biết hướng dẫn đoàn chiên theo giáo huấn của Chúa.

3) "Ta là cửa chuồng chiên" Chúa đòi hỏi ta phải tin và sống theo Chúa Kitô mới được cứu độ. Chỉ có Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn ta vào sự sống đời đời.

4) Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Những ai hướng dẫn ta, lôi kéo ta, cai trị ta mà không theo đường lối của Chúa, không thông hiệp với Giáo Hội, thì đều là những kẻ nguy hại cho phần rỗi của ta, nên phải đề phòng và canh chừng những người đó.

5) Hãy tin tưởng và phục tùng những người lãnh đạo đã được Chúa uỷ thác trong Giáo Hội để chăm sóc đoàn chiên Chúa.

6) Cầu nguyện trong ngày Ơn Thiên Triệu.

+ Xin Chúa cho nhiều người quảng đại đi theo tiếng Chúa gọi.

+ Xin Chúa cho linh mục, tu sĩ trung thành với ơn gọi.

+ Xin Chúa hướng dẫn lớp trẻ về với ơn gọi.

 

65.Mục tử nhân lành

Đối với người Việt Nam chúng ta thì hình ảnh "người chăn chiên" là một hình ảnh rất xa lạ, vì nước ta không chăn nuôi chiên như những người Do thái thời xưa. Hơn nữa, trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên và mục tử" thì e rằng chúng ta bị coi là người quê mùa, lạc hậu. Nhưng đối với người công giáo chúng ta, thì hình ảnh "chiên và mục tử" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, nói lên mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa luôn yêu thương, quan tâm, tận tình chăm sóc dân của người không chỉ về vật chất mà còn về tâm linh, không chỉ ở đời này mà còn cả đời sau nữa. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng cụ thể, Chúa Giêsu ví mình như một Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm, chăm sóc, yêu thương đàn chiên của mình.

Mục Tử Nhân Lành đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng anh và đi theo. Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng, chiên chẳng những không theo mà còn sợ hãi, chạy trốn, vì chúng không biết tiếng người lạ. Chúa Giêsu gọi những mục tử giả hiệu này là trộm cướp. Họ đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào, giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết "Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi". Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.

"Ta là Mục Tử Nhân Lành", Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn được nuôi dưỡng, được chăm sóc, được hướng dẫn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo Ta", nhưng các bạn hãy cảnh giác, đừng có bắt cá hai tay, nghĩa là các bạn không thể vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành lại vừa nghe theo tiếng gọi của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo "các ngươi không thể làm tôi hai chủ được". Tiếng của Mục Tử Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian và chúng ta sẽ chọn một trong hai "Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia" (Lc 16,13).

Chúa Nhật thứ IV PS hằng năm, còn gọi là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu, nghĩa là cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều người trẻ biết hy sinh, biết quãng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu để dâng mình cho Chúa trong ơn gọi làm Linh mục, làm tu sĩ. Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội. Giáo Hội hôm nay cũng như trong tương lai vẫn luôn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi. Vì thế, suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, Chúa Giêsu vị Mục tử tối cao đã chọn các Mục Tử là các Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục, Ngài trao phó cho họ tất cả với điều kiện là phải trở nên vị Mục Tử tốt lành như Ngài.

Để có những ơn gọi cho Giáo Hội, để có những thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo, thì ngay từ hôm nay các bạn phải biết tập lắng nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, hãy tập sống theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành bằng cách cố gắng thực hiện 3 việc sau đây:

Biết sống hy sinh: sự khác biệt giữa người Mục Tử Nhân Lành và người chăn thuê ở chỗ là có dám hy sinh vì đàn chiên của mình hay không? Sự hy sinh của các bạn hôm nay sẽ là dấu chỉ cho thấy tương lai các bạn trở nên Mục Tử như lòng Chúa mong ước. Sự hy sinh đó được thể hiện bằng những việc cụ thể như: tham dự thánh lễ mỗi ngày, mỗi tuần, tích cực tham gia các phong trào thiếu nhi thánh thể và giới trẻ trong họ đạo của mình. Biết giúp nhau vượt khó, hy sinh tiền quà bánh, tiền mua sắm để giúp bạn có điều kiện đến trường.

Biết quan tâm đến người khác: Từ nhỏ cho tới lớn các bạn được cha mẹ quan tâm nhiều, từ việc ăn uống tới học tập, từ việc ăn mặc tới nghỉ ngơi. Điều này có thể dẫn các bạn đến chỗ đánh mất ý thức là chính các bạn phải quan tâm đến người khác. Quan tâm tức là nhìn thấy công ơn to lớn của cha mẹ mà cảm ơn, sống tốt. Quan tâm là biết trở thành đứa con ngoan trong gia đình qua việc cố gắng phụ giúp cha mẹ, cố gắng học hành cho thật tốt. Quan tâm là biết giúp đỡ, biết quên mình để phục vụ cho lợi ích tha nhân, biết vui với niềm vui và buồn với nỗi khổ của người khác.

Sống có lý tưởng, có ước mơ: Sống là phải có lý tưởng, phải có ước mơ. Ước mơ làm Linh mục, làm thầy giáo, làm kỹ sư, làm bác sĩ... chính những ước mơ đó sẽ là động lực giúp các bạn phấn đấu vượt khó để vươn lên. Những ước mơ đó sẽ thôi thúc các bạn học và thực hành theo vị Mục Tử Giêsu đã làm là: hy sinh, quan tâm tới tha nhân và sống theo lý tưởng cao đẹp mà Chúa đã mời gọi. Amen.

 

66.Bạn đang lắng nghe đó chứ?

Các vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn ào vào giấc trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm còi inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người, thêm vào đó là tiếng còi hụ rền rĩ. Có hai người đàn ông đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một người là thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas đến thăm. Bất thình lình, người dân quê dừng lại và nói với người kia rằng: "Khoan đã, tôi nghe có tiếng dế gáy đâu đây". Ông kia trả lời: "Bộ anh giỡn chơi hả? Ở đây thường không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?" Anh bạn nhà quê giữ im lặng lắng nghe trong một vài giây rồi bước tới một góc có bồn xi-măng trồng mấy cây trong đó. Anh ta lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm phục nên nói: "Tai anh thật là thính!" Anh bạn quê trả lời: "Không phải vậy đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi. Chẳng qua tai mỗi người làm quen với tiếng động mà họ thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh xem". Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng nó lên lối đi. Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt đường thì hầu hết mọi người đang đi đều quay nhìn về hướng đó. Anh bạn ở quê liền nói: "Anh thấy không, chẳng qua là nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. "

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng một bài học đó bằng cách dùng hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên. Vào thời của Ngài (ngay cả bây giờ nơi Đất Thánh cũng vậy), khi chiều tàn thì những mục tử lùa bầy chiên của họ từ ngoài đồng cỏ về và nhốt chung lại với nhau trong một chuồng. Rồi đến sáng hôm sau những mục tử trở lại chuồng và tuần tự gọi những con chiên thuộc về mình mà dẫn chúng đi ăn. Điều đặc biệt là những con chiên nhốt chung đó tự tách ra khỏi bầy mà theo tiếng gọi riêng của chủ nó. Chúng không bị lẫn lộn bởi tiếng gọi của những mục tử nhưng tự chờ đến khi đúng tiếng của chủ nó mới đi ra.

"Ta là Mục Tử Tốt Lành," Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn cuộc sống được nuôi dưỡng, chăm sóc, và hướng dẫn đến mức sung mãn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo Ta!" Có một điều không thể xảy ra đó là các bạn vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành vào ngày Chúa Nhật và lại vừa đi nghe theo tiếng gọi của chủ chăn khác cả nguyên tuần được. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Các ngươi không thể làm tôi hai chủ được... các ngươi không thể vừa thờ phượng Thiên Chúa mà lại thờ tiền của được". Tiếng của Chủ Chăn Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian, và chúng ta phải chọn một trong hai vì như: "Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia" (Lk 16:13).

Gia đình chúng ta bị những tiếng khuyến dụ của thế gian quấy rầy cả bảy ngày trong một tuần bởi hằng triệu Đôla được bỏ ra làm chuyện đó; chúng ta được rỉ tai liên lỉ là: "Này bạn ơi nghe đây, bạn sẽ có một cuộc sống thoải mái nếu như bạn mua thứ này, mặc thứ nọ, ăn của kia, uống thức khác". Ví dụ như để xúi dục các bạn thanh niên uống bia nhiều hơn thì họ đã bỏ ra một số tiền khổng lồ để làm ra một quảng cáo thật hấp dẫn trình chiếu trên truyền hình. Hầu hết những diễn viên trong mục quảng cáo đó rất xinh đẹp trẻ trung, và ý tưởng của quảng cáo là hãy uống bia nếu như muốn cuộc đời mình hạnh phúc. Đây là câu chính quan trọng trong pha quảng cáo: "Không còn gì tốt và hay ho hơn điều này!" Thế nhưng đồng thời, thống kê cho biết là cứ mười trong một ngàn người bị chết hoặc tàn tật suốt đời bởi tai nạn là do say rượu lái xe.

Cứ tuần tự mỗi tuần lễ chúng ta tụ họp nơi đây và được nghe các vị Mátthêu, Mátcô, Luca, Gioan và Phaolô loan báo cho chúng ta biết rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc xác phàm đi vào thời gian nhưng hiện tại Ngài đã đi vào biên giới của nhịp điệu vĩnh cửu.

Bạn đang lắng nghe đó chứ? Lời Chúa nói cho chúng ta biết về Đấng Tình Yêu vượt quá mọi đo lường. Lời Chúa loan báo cho chúng ta một Hy Vọng vượt quá mọi suy tưởng. Lời Chúa cho chúng ta biết về một cuộc sống toàn hảo sẽ ban tặng cho những ai bước vào gianh giới của vĩnh hằng. Đừng để tiếng động nhỏ của đồng tiền lôi chúng ta ra khỏi ranh giới đời đời!

 

67.Mục Tử Nhân Lành – Lm. G. Nguyễn Cao Luật

Năm 1964 dư luận thế giới xôn xao bàn tán về kịch bản tựa đề "Vị Đại Diện" Trong đó, soạn giả Hóc-hút kết án Đức Giáo Hoàng Piô XII là đồng lõa với Đức Quốc Xã nên đã không hề lên tiếng bênh vực người Do Thái trong thời thế chiến II. Rồi tất cả những người thù nghịch Tòa Thánh Vatican đã nhao nhao hùa vào bôi nhọ gương mặt của Đức Piô XII và đả kích Giáo Hội. Nhưng một năm sau đó, linh mục Rosaria Espuslto đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề "Vụ án Vị Đại Diện" thu thập rất nhiều tài liệu và chứng từ chứng minh cho thấy cái sai lầm của những lời kết tột nói trên.

Thật ra, qua các Tông huấn và hàng trăm thư từ và cả các sứ đíệp đọc trên đài Vatican, Đức Piô XII đã nhiều lần kết án Đức Quốc Xã về quyền con người và các vụ tàn sát do Đức Quốc Xã chủ mưu cũng như bênh vực và cứu hàng ngàn người Do Thái khỏí chết. Và hình ảnh khó quên nhất là khi thủ đô Rô-ma bị quân Đức Quốc Xã bỏ bom, Đức Piô XII đã rời thành Vatican đến uỷ lạo dân chúng bí chết và bị thương trên quảng trường trước nghĩa trang Pam-pu-pi-ra-nô giữa tiếng bom đạn nổ chung quanh. Trong tình hình chiến sự nguy ngập và với những phương tiện eo hẹp của thơì thế chíến II, Đức Piô XII đã hành động như một Vị Mục Tử nhân lành.

Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Đây cũng là đề tài nổi bật của các bài đọc Phụng vụ CN IV Phục Sinh Năm A.

Trong bài Tin Mừng: Chương 10 Tin Mừng Gio-an vẫn được gọi là Tin Mừng Mục Tử nhân lành được khai triển theo một lược đồ quen thuộc trong nền văn chương Khải huyền. Lược đồ đó gồm ba nhịp: Lời Mạc khải - Thái độ không hiểu của cử tọa - Lời Mạc khải mới. Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh trên việc săn sóc đoàn chiên và niềm vui của sự hoán cải, Tin Mừng theo thánh Glo-an nêu bật các mối liên hệ cá nhân, thân tình của vị Mục Tử và từng con chiên. Tất cả những hình ảnh Thánh kinh: Mục Tử,.., đoàn chiên và các chiên cũng như các động từ để diễn tả mối tương giữa Thiên Chúa với loài người với cộng đoàn Giáo Hội, dân riêng của Thiên Chúa, trong nhãn quan Kitô.Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhắc nhở hình ảnh Thiên Chúa Mục Tử hướng dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập và đưa họ vào Đất Hứa như được tường thuật trong sách Xuất hành.

Mạc khải thứ nhất trong chương 10 Tin Mừng theo thánh Gio-an nêu bật sự khác biệt giữa Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và các người chăn thuê: Chúa Giêsu đi vào qua cửa chính chứ không đột nhập chuồng chiên bởi vì Người là chủ chăn có các mối liên hẹ thân tình với đoàn chiên, bằng chứng là Người biết và gọi trên từng con chiên một và các chiên biết tiếng gọi của Người. Động từ "biết" ở đây theo ngôn ngữ Thánh Kinh ám chỉ các liên hệ thân tình liên bản vị như liên hệ sâu thẳm khắng khít giữa hai vợ chồng.

Và Chúa Giêsu Mục Tử dẫn đưa đoàn chiên đi ra tới các đồng cỏ xanh tươi, Người hướng dẫn và đồng hành với đoàn chiên. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả cuộc Xuất hành mới do Chúa Giêsu lãnh đạo Cộng đoàn của những người đi theo Người trong cuộc giải phóng này là cộng đoàn Phục Sinh, là Giáo Hội đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi và khỏi mọi sự dữ và cái chết. Sau phản ứng không hiểu của cử tọa, Chúa Giêsu tuyên bố mình là Cửa chiên. Lúc đó trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu nhìn Cửa chiên là một hình ảnh của cửa thành thánh Giê-ru-sa-lem và đoàn tín hữu tiến qua cửa chiên đó để vào Đền thờ cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế khi tuyên bố mình!à Cửa chiên, Chúa Giêsu có ý nói Người là nơi mà qua đó con người bước vào trong tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa. Người là ngôi lều bằng thịt nơi Thiên Chúa ngự trị và sống giữa dân người, đồng thời là trung gian cần thiết, nghĩa là Cửa chính qua đó con người tới được với Thiên Chúa.

Kiểu nói "Ta là" ám chỉ tên gọi của Thiên Chúa đã mạc khải cho ông Mô-sê trong sa mạc xưa kia: 'Ta là Đấng Hằng Hữu. Nói cách khác Chúa Giêsu tự xưng mình là Thiên Chúa. Chính vì thế nên ai tin vào Người, chấp nhận và sống Tin Mừng của Người sẽ được ơn Cứu độ. Lòng tin đó vào Chúa Gìê-su, Đền Thờ toàn vẹn của Thiên Chúa Cha bao gồm ba kết quả quan trọng:

Thứ nhất: nếu ai bước vào trong đó sẽ được cứu rỗi, nghĩa là ai chọn tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, tức là trong Chúa Giêsu Kitô, thì được thông phần trọn vẹn vào sự sống thần linh của Người, và vì thế được ơn cứu rỗi.

Thứ hai: người đó sẽ "vào, ra". Theo klểu nói của người Do Thái, hai động từ đối chọi này ám chỉ hai cực của cuộc sống con người: là ra khỏi lòng mẹ để chào đời, để bước vào trong lòng thế giới; là ra khỏi cuộc sống ở trần gian này để đi vào lòng đất. Nói cách khác, 'vào ra, ra vào' diễn tả toàn bộ cuộc sống của người tín hữu với Chúa Kitô, một cuộc sống của sự hiện diện và đồng hành với Chúa Kitô, một cuộc sống kết hiệp với Người trong mọi sự.

Thứ ba: tín hữu sẽ tìm thấy đồng cỏ xanh. Chúa Giêsu Kitô sẽ đáp ứng mọi khát vọng và chờ mong của họ và cho họ hưởng nếm những phút giây hạnh phúc trên đồng cỏ xanh tươi là Nước của Người. Điều đó còn có nghĩa là Người luôn luôn chăm sóc cho đoàn chiên của Người khác với "những kẻ trộm trèo qua cửa sổ" để cướp bóc và tàn sát đoàn chiên.

Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhân lành đến để trao ban cuộc sống của chính Người và niềm vui dồi dào cho những ai tin vào Người. Nhưng để có niềm tin trao ban sự sống và niềm vui ấy chúng ta phải làm gì?

Trong bài giảng cua thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như ghi trong chương hai sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô đề nghị với mọi người một chương trình hoán cải bao gồm các đểm giáo lý nền tảng như được rao giảng trong cộng đoàn Kitô tiên khởi. Muốn được hưởng ơn Cứu độ, người tín hữu phải lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, nghĩa là lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người làm kim chỉ nam cho toàn cuộc sống. Quyết định này dẫn tín hữu đến chỗ thay đổi tấm lòng, thay đổi lối sống từ cách suy tư và hành xử, để cho Chúa Giêsu Kitô biến đổi toàn cuộc sống của mình.

Tiến đến cần lãnh nhận bí tích Rửa tội và Chúa Thánh Thần để được ơn tha tội và bước vào cuộc sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Như thế, khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, tín hữu trở thành một thụ tạo mới vì có trong mình một nguyên lý sự sống mới thần thiêng, siêu việt. Dân riêng mới phát sinh từ những người biết tìếp nhận Lời Chúa.

Nơi bài đọc II trích từ thư I của thánh Phêrô chỉ cho chúng ta một bí quyết khác giúp tín hữu đón nhận được sự sống mới, đó là chiêm ngắm dung mạo của Chúa Giêsu Kitô khải hoàn, vinh híển được diễn tả trong Kính thánh Cựu Ước là "Chiên Con" của Lễ Vượt Qua, là "Người Tôi Tớ Đau Khổ của Gia-vê Thiên Chúa" và là con dê đền tội trong lễ nghi xá giải xưa kia. Việc chiêm ngắm gương sống của Chúa Giêsu Kitô khiến cho tín hữu dấn thân sống xác tín bằng lòng tin sâu đậm hơn. Khổ đau mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống thường ngày không còn là một lời chúc dữ tối tăm nữa nhưng chất chứa môt mầu nhiệm phong phú cần phải khám phá ra với đôi mắt đức tin. Nếu chính câc vết thương đớn đau và khổ nhục của Cllúa Giêsu cbịu chết treo trên thập giá chữa chúng ta khỏi các thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta, thì giờ đây chúng ta có thể dùng mọi đau khổ trong đời để tiếp tục phổ biến ơn lành Cứu độ phát xuất từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và đó là hoa trái tuyệt diệu và bất ngờ nhất của đức tin Kitô.

 

home Mục lục Lưu trữ