Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1364259

TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA

TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C mời gọi suy niệm về tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Người sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối:

“Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,nào có ai đứng vững được chăng?Nhưng Chúa vẫn rộng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130: 3-4).

Xh 32: 7-11, 13-14:

Nhờ lời chuyển cầu tha thiết của ông Mô-sê, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha thứ tội lỗi của dân.

1Tm 1: 12-17:

Thánh Phao-lô viện dẫn cuộc hoán cải của chính mình để làm chứng “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34).

Lc 15: 1-10:

Chúa Giê-su trả lời cho lời phàn nàn của người Biệt Phái tại sao Ngài giao du với những người tội lỗi qua hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” và “Đồng bạc bị đánh mất”. Qua hai dụ ngôn này, Đức Giê-su hiện thân tấm lòng đầy xót thương của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (Xh 32: 7-11, 13-14)

Trong khi ông Mô-sê còn lưu lại trên núi, dân chúng bắt ép ông A-ha-ron đúc cho họ một vị thần linh mà họ có thể thấy và chạm được – loại thần linh mà các dân tộc chung quanh đang phụng thờ. Bản văn nhấn mạnh sự kiện con bê được đúc bằng bạc vàng do bàn tay con người, chỉ là một sản phẩm của các nghệ nhân, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không thấy  (x. Tv 105: 19-20; 115: 5tt). Bản văn cũng nói đến “lễ hội” (32: 5) có thể hàm ý đến những nghi lễ cúng tế thần linh bắt chước những gì dân Do thái thấy ở nơi các dân tộc chung quanh.

*1.Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (32: 7-10)

Thiên Chúa báo tin dữ cho ông Mô-sê và ngỏ ý muốn tiêu diệt dân phản nghịch, dân mà Ngài không còn gọi là “dân Ta” một cách thân tình nữa, nhưng là “dân ngươi” (32: 7) một cách xa lạ. Tội này quá nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt bằng họa diệt vong. Nhưng vì công lao khổ nhọc của ông Mô-sê, Thiên Chúa hứa với ông Ngài sẽ làm nên một dân tộc khác, lớn hơn dân Do thái, xuất từ ông để dân ấy thừa hưởng lời hứa (32: 10).

*2.Lời chuyển cầu của ông Mô-sê (32: 13-14):

Ông Mô-sê tuy rất buồn giận dân, nhưng lòng thương của ông dành cho dân khiến ông không muốn dân bị hủy diệt. Ông chuyển cầu cho dân. Ông gợi lên hai lý do để xin Chúa tha thứ. Lý do thứ nhất, tiêu diệt dân có thể khiến cho người ta hiểu lầm lòng tốt của Thiên Chúa: người Ai-cập có thể lấy cớ đó mà rêu rao rằng “chính vì ác tâm mà Thiên Chúa đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất” (32: 12). Lý do thứ hai, tiêu diệt dân thì đi ngược lại với những lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ: “Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa, chúng sẽ thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (32: 33; x. St 22: 16-18).

Có lẽ hai lý do này không đủ làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cho bằng chính hành vi chuyển cầu của ông cho dân. Ông là một phàm nhân mà còn không muốn dân phải chết dù tội của dân đáng phải chịu như thế, Thiên Chúa lại không mở rộng lòng mà tha thứ cho dân sao? Vai trò chuyển cầu của ông Mô-sê cho toàn dân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bộ Ngũ Thư: tại Ai-cập (Xh 5: 22-23; 8: 4; 9: 28; 10: 17), nhất là nơi hoang địa (Xh 32: 11-14, 30-32; Ds 11: 2; 14: 13-19; 16: 22; 21: 7; Đnl 9: 25-29), còn được nhắc lại ở Gr 15: 1; Tv 99: 6; 106: 23; Hc 45: 3, và báo trước vai trò chuyển cầu của Đức Giê-su sau này.

BÀI ĐỌC II (1Tm 1: 12-17)

Lời phát biểu chủ chốt trong đoạn trích này là “Đức Ki-tô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi” (1: 15).  Trong tâm tình tri ân, thánh Phao-lô nhắc lại cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân tín của mình, cuộc hoán cải của thánh nhân (x. Gl 1: 13-16; 1Cr 15:9; Ep 3: 8) và trình bày nó như mẫu gương cho những người khác. Nếu Thiên Chúa đã ban cho thánh nhân tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa cũng ban tràn đầy ân sủng cho bất kỳ ai. Không ai tự coi mình là không thể sống sự sống của Đức Ki-tô.

Chúng ta không thể kỳ vọng lòng thương xót của Thiên Chúa tác động trong chúng ta, nếu chúng ta vẫn cứ cố chấp trong tội khi mà chúng ta biết đó là tội (x. Rm 2: 4). Thánh Phao-lô “đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1: 13). Chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34). Nhưng ngay cả khi không biết việc mình làm, thánh Phao-lô cũng ý thức rằng: “Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1: 14). Chính đó là đức tin và đức mến mà hiện nay Đức Ki-tô đổ tràn đầy trên thánh nhân (x. Gl 2: 16; Rm 5: 15-20), vì “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).

Ân sủng Thiên Chúa ban đã là mẫu gương khuyến khích mọi người, và hiện nay chính là sứ vụ của thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 3: 5-6; 4: 1; 5: 18; 6: 3; Rm 11: 13; Cl 1: 7, 23), quyền năng của sứ vụ đến từ Thiên Chúa chứ không từ thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 12: 9; Pl 4: 13), đó là kể cho mọi người biết điều này, ngỏ hầu họ cũng trải nghiệm cùng ân sủng tràn đầy như vậy.

Cuộc hoán cải của thánh Phao-lô làm chứng cho “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Ngài sẽ không bao giờ ngừng theo đuổi chúng ta. Đấng yêu thương chúng ta là Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34). Thánh Phao-lô hy vọng rằng thánh nhân sẽ là mẫu gương để không ai còn phải thất vọng. Chúng ta không thể giả vờ như thử không nhận ra tội lỗi tác hại như thế nào, để rồi vẫn cứ ở lỳ trong tội. Nhưng dù chúng ta đã làm bất kỳ điều gì, quá khứ của chúng ta đã như thế nào, Ngài vẫn một mực yêu thương chúng ta. Ngài đã hiến thân mình cho chúng ta và sẽ không bao giờ ngừng kêu mời chúng ta sám hối và tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài (1: 16; x. Rm 9: 33; 10: 11), nhờ đó chúng ta được vui hưởng cuộc sống đời đời với Ngài. Tư tưởng này khiến thánh Phao-lô cất lên lời ca ngợi Thiên Chúa bất diệt (Rm 1: 23), vô hình (Cl 1: 15) và duy nhất (Ep 4: 6).

Trong cuộc sống của mình, thánh Phao-lô luôn bày tỏ tình yêu kỳ diệu của Đức Ki-tô (1: 16), được lập đi lập lại như một điệp khúc trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “ngợi khen vinh quang của Người” (Ep 1: 6, 12, 14). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại (Ep 1: 3-14). Đó là sứ điệp trọng tâm mà thánh Phao-lô muốn ông Ti-mô-thê bảo đảm thường hằng giảng dạy cho các cộng đoàn Ki-tô hữu khắp miền Ê-phê-xô.

TIN MỪNG (Lc 15: 1-10)

Trong chương 15 này, thánh Lu-ca kể lại ba trong số những dụ ngôn trong đó Chúa Giê-su mô tả niềm vui của Thiên Chúa khi thấy những người tội lỗi hối cải. Tin Mừng dạy rằng không ai bị loại ra ngoài ơn tha thứ của Thiên Chúa, vì thế những tội nhân có thể trở thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa nếu họ ăn năn hối cải. Thiên Chúa ước mong những tội nhân hối cải đến mức mỗi một dụ ngôn này đều kết thúc với một điệp khúc kể về niềm vui lớn lao trên trời khi thấy một tội nhân hối hận ăn năn.

*1.Những phàn nàn của người Biệt Phái (15: 1-3):

Đây không là lần đầu tiên những người thu thuế và những người tội lỗi năng lui tới với Đức Giê-su (15: 1; x. Mt 9: 10). Họ bị hấp dẫn bởi chính lời rao giảng của Đức Giê-su và tấm lòng rộng mở của Người đối với họ. Trái lại, những người Biệt Phái và các kinh sư vấp phạm vì thấy Chúa Giê-su giao du và bầu bạn với những người tội lỗi, những người mà chẳng những họ không chỉ khinh bĩ mà còn cấm không được giao thiệp để khỏi bị ô uế.

*2.Câu trả lời của Đức Giê-su (15: 4-10):

Trước đây, Đức Giê-su đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giê-su phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể, qua ba dụ ngôn, hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7), “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10) và một dụ ngôn dài: “Người Cha nhân hậu” (15: 11-32). Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chỉ trích dẫn hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7) và “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10).

Hai dụ ngôn ngắn này được gọi là “cặp dụ ngôn sinh đôi” vì có cùng một cấu trúc song song với nhau. Cả hai dụ ngôn đều bắt đầu với một câu hỏi giả thiết, một lời đáp trả khẳng định. Một cái gì đó “bị mất” (lập lại đến năm lần) mà người ta “đã tìm lại được” (sáu lần). Sau khi đã tìm lại được, người ta chia sẻ niềm vui với người chung quanh. Như vậy, cặp dụ ngôn sinh đôi này không quan tâm đến tới cách thức đã xảy ra sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẽ niềm vui cả ở dưới thế lẫn ở trên trời. Như thế, việc Chúa Giê-su thường giao du với các kẻ bị loại trừ được biện minh bởi hành động của Thiên Chúa. Và hai dụ ngôn này như muốn nêu lên cho các người Biệt Phái, các kinh sư và cả độc giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Đức Giê-su khi thấy “những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Ngài giảng” không?

*3.Dụ ngôn: “Con chiên lạc bị lạc đàn” (15: 4-7)

Công việc của người chăn chiên tại xứ Pa-lét-tin là một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn địa thế phần nhiều là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu, chiên dể đi lạc. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hằng dặm qua núi đồi.

Tác giả của sách suy niệm “Hosanna” đã quảng diễn niềm vui của người chăn chiên khi gặp được con chiên bị lạc như sau: “Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong đôi mắt tôi. Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của Người”.

Phải chăng lời phát biểu của Đức Giê-su: “Hơn là chính mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” là một lời mỉa mai nhằm ngụ ý nhắn gởi đến các người Pha-ri-sêu và kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai tự cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa mà tẩy chay và kết án người khác (x. Rm 3: 10tt), vì thế chính họ cũng cần hoán cải? Hay phải chăng đây là một cách nhấn mạnh tận mức, như trong chính dụ ngôn ở câu 4, giá trị khôn sánh của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài? Điều này không có nghĩa rằng Chúa Giê-su không đánh giá cao sự kiên trung bền vững của những người công chính. Người đơn giản nhấn mạnh niềm vui của Thiên Chúa và các thánh về sự hoán cải của người tội lỗi. Đây rõ ràng là lời kêu gọi ăn năn sám hối, đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ.

Công Đồng Vatican II áp dụng dụ ngôn này vào phương cách các linh mục tiến hành công việc mục vụ của mình: “Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ cho các tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt tử tế và mục vụ của một thừa tác viên thật sự, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15: 4-7) những người đã lãnh nhận phép rửa trong Giáo Hội Công Giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin” (Vatican II, Lumen gentium, 28). Tuy nhiên, mỗi một tín hữu cũng phải có chung một mối bận lòng này – được diễn tả một cách huynh đệ – đối với anh chị em của mình, đối với mọi người trên con đường tiến bước đến sự thánh thiện và ơn cứu độ.

*4.Dụ ngôn: “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10)

Một người đàn bà chong đèn quét nhà moi móc tìm cho bằng được một đồng bị đánh mất rõ ràng là hình ảnh của một bà mẹ quê tần tảo chắt chiu từng đồng xu mà chúng ta thường gặp thấy ở bất kỳ đất nước nào. W. Baclay cung cấp cho chúng ta một lý do khác, một khía cạnh văn hóa thi vị như sau. Tại Pa-lét-tin, dấu hiệu của một người phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì xâu chuỗi tiền trên đầu của nàng cũng đánh giá ngang bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nổi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất chiếc nhẫn cưới (Trích từ “Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 191).

Tác giả “Hạt Giống Nẩy Mầm” đã suy niệm hai dụ ngôn ngắn này cách sâu xa như sau: “Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên bị lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy một trăm con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỷ lưỡng: thắp đèn quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: ‘Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối’. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân”.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C

LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

*I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!”

Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.

Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.

*II. Gợi ý sám hối

* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.

*III. Lời Chúa

*1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)

Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.

Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.

Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:

  • Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
  • Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu “Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe”.

*2. Đáp ca (Tv 50)

Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: “Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm”.

*3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)

Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.

Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói “đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

*4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17)

Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:

  • “Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót”
  • “Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”
  • “Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài”.

*IV. Gợi ý giảng

* 1. Giá trị của từng con người

Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.

Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.

Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.

Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).

* 2. Cái mất là cái quý

Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.

Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.

Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)

Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi lạc bị mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.

Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?

  • Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
  • Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
  • Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.

* 3. Những con người bị mất

Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.

Những con người bị mất ấy là ai?

  • Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
  • Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
  • Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
  • Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
  • Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
  • Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.

Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.

* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương

Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:

– Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.

Ngài ôn tồn bảo:

– Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.

Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.

*

Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.

Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.

Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.

Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.

Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.

Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.

Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.

Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà”.

*

Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.

Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)

*5. Chuyện minh họa

a/ Sự tha thứ của Chúa

Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.

– Ông biết đây là gì không?

– Nó giống như cát.

– Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?

– Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.

– Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?

– Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.

b/ Không cần đếm

Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. “Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? ” Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. “

*V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:

  1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
  2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
  3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
  4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

*VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.

*VII. Giải tán

Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ