Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1363658

THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI

THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI (*) Chú giải của Noel Quession

 

Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau “năm tốt lành”, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).

Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.

Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: “một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa”. Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.

Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. “Họ khám phá ra Maria”. Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.

Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là “theotokos” “Mẹ Thiên Chúa”. Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: “Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt”. Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.

Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.

Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.

Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.

Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa “nhập thể” trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn “nhân bản” và hoàn toàn “thiên bản”: lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,… những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.

Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.

Điều họ đã được loan báo, chính là “một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh “Sự thờ kính của các mục đồng”. Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:

Người là Đức Kitô và là Chúa!”. Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.

Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.

Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.

Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.

Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu

Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?

Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình “trước khi Người được thụ thai trong lòng”.

Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình… và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!

Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA- Chú giải Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Khi tuyên xưng Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là Con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể. Lễ kính trọng thể “Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” có gốc tích rất lâu đời và được phổ biến trên khắp thế giới. Trong lịch canh tân Phụng Vụ, lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa này được cử hành vào ngày mồng 1 tháng giêng, trùng với ngày bát nhật Giáng Sinh, ngày kính nhớ việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giê-su, nhưng cũng trùng với ngày Tân Niên, ngày đầu năm mới cầu cho hòa bình thế giới. Đức Phao-lô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy này được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rô-ma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Ma-ri-a góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước vị cao quý đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (“Marialis Cultus” 5).

-Ds 6: 22-27

Đây là một trong những bản văn đẹp nhất của bộ Ngũ Thư, về phương diện văn chương và thần học. “Lời chúc lành của tư tế” nêu bật sự hiện diện thi ân giáng phúc của Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống và phúc lành. Lời chúc lành này gồm ba lời nguyện xin, mỗi lời bắt đầu với danh xưng Đức Chúa. Vài tác giả xưa nhìn thấy nơi việc kêu cầu ba lần Danh Thánh này báo trước Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chúc lành cầu xin được che chở, ân sủng và bình an: ba hồng ân tóm tắt mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn. 

-Gl 4: 4-7

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khẳng định với chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Ngài là Con Thiên Chúa được sinh ra làm con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

-Lc 2: 16-21

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta hai biến cố: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su” và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên”.

BÀI ĐỌC I (Ds 6: 22-27)

Đây là đoạn văn thuộc truyền thống tư tế. Trong phần nhập đề, Đức Chúa căn dặn ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này” (6: 22-23). Như vậy, các tư tế có nhiệm vụ chúc lành cho dân Ngài. Tuy nhiên, trong phần chúc lành, ba lời chúc lành đều bắt đầu với danh Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa”. Điều này cho thấy vị tư tế chỉ là người trung gian, chính Đức Chúa mới thật sự là Đấng hiện diện và chúc lành.

1.Lời chúc lành thứ nhất (6: 24)

Trong lời chúc lành thứ nhất, “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em” . Từ “gìn giữ” ở đây nói đến ơn phù trợ của Thiên Chúa khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc sống, như: “Xin gìn giữ con như con ngươi mắt Ngài, xin dấu con dưới bóng của cánh tay Ngài” (Tv 17: 8) hay “Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu chữa” (Tv 31: 17; 80: 4, 8, 20). Lời chúc lành thứ nhất này muốn nói rằng “Xin Thiên Chúa đổ tràn ơn lành trên dân và che chở cho dân tránh mọi tai họa có thể đổ xuống trên dân”. Lời chúc phúc thứ nhất này nhấn mạnh Ơn Quan Phòng của Chúa.

2.Lời chúc lành thứ hai (6: 25)

Trong lời chúc phúc thứ hai, “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em”, nghĩa là xin Thiên Chúa nhìn đến dân Ngài bằng ánh mắt chan chứa niềm vui của Ngài. Lời cầu này muốn nói rằng nếu có điều gì không vừa lòng đẹp ý Ngài, thì xin Ngài “rủ lòng thương” mà khoan hồng độ lượng rộng tình tha thứ những lỗi phạm của dân Ngài. Lời chúc lành này nhấn mạnh tấm lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, như sấm ngôn của Giê-rê-mi-a: “Trở về đi, hỡi Ít-ra-en phản bội. Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa, vì Ta giàu lòng thương xót” (Gr 3: 11).

3.Lời chúc lành thứ ba (6: 26)

Trong lời chúc lành thứ ba, “Nguyện Đức Chúa ghé mặt nhìn”, nghĩa là xin Thiên Chúa đừng ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng nhìn đến dân Ngài như “Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông, thì Người không đoái nhìn” (St 4: 5-6). Chính cái nhìn của Thiên Chúa đem lại “bình an” cho dân Ngài. Với tính thực tiển của Cựu Ước, chúng ta không được quan niệm “bình an” trong nội tâm. Thế giới của Cựu Ước chưa biết trừu tượng hóa hay nội tâm hóa. Cái bình an mà Cựu Ước muốn nói đến là tình trạng hòa hợp giữa con người với trời và đất. Chỉ có bình an thực sự giữa con người với nhau trong một mối giao hòa với trời và đất, bây giờ mới có bình an trong tâm hồn, như lời ca ngợi của đoàn sứ thần trên bầu trời Bê-lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2: 14).

-Kết luận (6: 27)

Chúc lành như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của “Danh Thiên Chúa”, danh Thiên Chúa đồng nhất với chính sự hiện diện thi ân giáng phúc của Ngài. Vào thời Cựu Ước, chính Đức Chúa, qua trung gian của các tư tế, chúc phúc cho dân Ngài. Vào thời Tân Ước, Con Một Thiên Chúa làm người, là Đức Giê-su, nghĩa là “Đức Chúa cứu độ”, chính Ngài chúc phúc cho nhân loại. Từ nay mọi ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại đều qua Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất giữa nhân loại và Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)

Bài Đọc II được trích từ Thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ga-lát. Thánh Phao-lô viết Thư này vào năm 54-57 cốt để biện minh cho mình vì có nhiều người đặt nghi vấn về sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân và Tin Mừng mà thánh nhân loan báo.

Vì thế, ngay từ đầu Thư, thánh nhân xác quyết sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân bắt nguồn từ Đấng Phục Sinh: “Tôi là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại” (1: 1). Từ đó, thánh Phao-lô khẳng định tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Thực vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô mặc khải” (1: 11-12). Thánh Phao-lô cũng viện dẫn các Tông Đồ trực tiếp của Đức Giê-su, các ngài cũng chứng nhận tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì” (2: 9).

Trong đoạn Thư được Phụng Vụ trích dẫn hôm nay, thánh nhân đề cập đến mầu nhiệm Nhập Thể và hiệu quả mà mầu nhiệm này mang lại cho nhân loại.

1.Mầu nhiệm Nhập Thể nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa:

Diễn ngữ: “Khi thời gian tới hầu viên mãn”, muốn nói rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị dài lâu trong lịch sử dân Ngài cho biến cố Nhập Thể của Con Ngài để con người đủ khả năng đón nhận Tin Mừng Đức Giê-su loan báo và đón nhận dung mạo Thiên Chúa mà Đức Giê-su mặc khải.

2.Con Thiên Chúa làm người để con người trở nên con cái của Thiên Chúa:

Để cứu độ con người, Con Thiên Chúa đã thật sự chấp nhận kiếp sống phàm nhân, được sinh ra do một người phụ nữ, sống dưới Lề Luật và thật sự trở nên anh em của nhân loại, nhờ đó chúng ta trở thành đàn em của Ngài và là con cái Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.

3.Ân ban được làm con cái của Thiên Chúa:

Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã đón nhận Thần Khí của Chúa Ki-tô, nhờ đó chúng ta có thể trìu mến thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta không còn là những kẻ nô lệ, nhưng là những con người tự do và có quyền thừa kế.

TIN MỪNG (Lc 2: 16-21)

Đoạn Tin Mừng hôm nay, được trích từ “Tin Mừng về Thời Thơ Ấu của Chúa Giê-su” theo thánh Lu-ca, gồm có hai hoạt cảnh: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi” (2: 16-20) và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên” (2: 21)

1.Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi (2: 16-20)

Ngay khi được thiên sứ báo tin vui: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Ngài là Đấng Ki-tô Đức Chúa” và ban cho họ một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 10-12), các mục đồng cùng nhau lên đường ngay tức khắc. Thánh Lu-ca nêu bật thái độ tích cực của các mục đồng: Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ, phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Người. Thái độ của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng: phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20), phản ứng của những người nghe họ kể lại (2: 18) và cuối cùng là phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19).

A-Phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20)

Ngay khi được sứ thần báo tin, các mục đồng hối hả ra đi vì họ quá đổi vui mừng và nôn nóng mong gặp được Đấng Cứu Độ. Trước đây, thánh Lu-ca đã nhận xét rằng ngay sau biến cố Truyền Tin, Đức Mẹ cũng đã “vội vả ra đi” viếng thăm bà Ê-li-sa-bét (Lc 1: 39). Một tâm hồn đã cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình thì hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã viếng thăm mình và cuộc sống của mình đã được dung nạp một nguồn năng lực mới, như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Am-rô-si-ô: “Không ai tìm kiếm Đức Ki-tô chỉ một nữa tấm lòng” (Expositio Evangelii sec. Lucam., in loc.).

Trong “Tin Mừng về Thơ Ấu của Chúa Giê-su”, thánh Lu-ca mô tả khung cảnh máng cỏ đến ba lần: lần thứ nhất, Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (2: 7), lần thứ hai qua dấu chỉ mà sứ thần ban cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”, (1: 10-12) và lần thứ ba, khi đến nơi, các mục đồng “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Những gì các mục đồng chứng kiến trong máng cỏ tương phản với phản ứng của họ vào lúc kết thúc hoạt cảnh này: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa” (1: 20).

Tương phản nầy tiên báo một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thân làm người không phải là để một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Tuy nhiên, trong mạch văn, Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ, tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ này: dấu chỉ để nhận ra Ngài đó là “một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Chiếc tã đầu đời để ủ ấm Ngài là chiếc khăn trùm đầu một nắng hai sương của Mẹ Ngài và chiếc nôi đầu đời để vỗ về giấc ngủ của Ngài là máng cỏ của bò lừa ăn, đó là dấu chỉ giúp cho những mục đồng nghèo khổ và bị khinh miệt này nhận ra được Đấng Cứu Thế đã đến: con trẻ sơ sinh này sẽ là Đấng sau này đón tiếp những kẻ tội lỗi và đồng bàn với họ (15: 2). Thiên Chúa đã ưu ái những người phận hèn bé mọn (x. Cn 3: 32).
Và sau khi đã kiểm chứng, các mục đồng “liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này” (2: 17). Họ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc Giáng Sinh của Đấng Cứu Độ. “Các mục đồng không hài lòng tin vào biến cố hạnh phúc mà thiên sứ công bố cho họ và đầy kinh ngạc, họ đã chứng kiến tận mắt; họ đã bày tỏ niềm vui của mình không chỉ với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se nhưng cho mọi người và, còn hơn nữa, họ cố gắng ghi khắc biến cố này trong tâm khảm của họ” (Photius, Ad Amphilochium, 155).

Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành Lu-ca phác họa chân dung của những người Ki-tô hữu: “Họ liền hối hả ra đi” và “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt  thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (1: 20).

B-Phản ứng của những người nghe các mục động kể lại (2: 18)

Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất, vì thế, “nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên”“Tại sao không kinh ngạc cho được, khi thấy trên cõi thế Đấng ở trên cõi trời, và đất và trời được hòa giải; khi thấy Hài Nhi khôn tả liên kết điều gì là trời – thần tính – và điều gì là đất – nhân tính – sáng tạo một giao ước kỳ diệu qua sự hiệp nhất này. Không chỉ họ kinh khiếp trước mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng cũng trước lời chứng vĩ đại mà các mục đồng làm chứng, những người đã không thể bịa ra điều gì họ đã không nghe và công bố một cách hùng hồn sự thật” (Photius, Ad Amphilochium, 155).

Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ hết mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó. Những mục đồng là những kẻ bị khinh bỉ và liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).

C-Phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19)

Đây là một trong những ghi nhận quý giá về nhân cách của Đức Ma-ri-a: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2: 19). Qua lời ghi nhận này, thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh ký. Thánh Lu-ca đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thần linh, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà thánh sử đã gìn giữ từ chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng, để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.

Lời ghi nhận này, được lập lại đến hai lần: ở đây và ở 2: 51, nói với chúng ta nhiều điều về Đức Mẹ. Với thái độ cung kính, Mẹ chiếm ngắm những điều kỳ diệu được hiện thực ở nơi cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ. Mẹ đã gẫm suy chúng, chiêm ngắm chúng và cất giữ chúng vào trong cõi thinh lặng của tấm lòng Mẹ. Mẹ là Bậc Thầy đích thật của cầu nguyện: “Đức Ma-ri-a sử dụng cả ba năng lực quan trọng của con người. Đức Ma-ri-a ghi nhớ tất cả những gì đã nghe, đó là ký ức. Đức Ma-ri-a suy nghĩ về các điều đó, tức là dùng lý trí. Đức Ma-ri-a suy nghĩ trong lòng, tức là dùng tình cảm, vì xúc động. Ký ức, lý trí, tình cảm đều được dùng để ứng xử với những gì đã nghe” (“Nước Suối Giữa Sa Mạc”, 84).

Nếu chúng ta noi gương Mẹ, nếu chúng ta gìn giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng mình điều gì mà Đức Giê-su nói với chúng ta và điều gì Ngài làm trong chúng ta, chúng ta thật sự bước trên đường thánh thiện Ki-tô giáo và chúng ta sẽ không bao giờ thiếu đạo lý của Ngài và ân sủng của Ngài. Cũng vậy, bằng việc chiêm niệm theo cách thức này về giáo huấn Đức Giê-su đã cho chúng ta, chúng ta sẽ đạt được một sự hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Đức Ki-tô như Giáo Huấn của Công Đồng Va-ti-can II: “Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (x. Lc 2: 19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ những việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (Vatican II, Dei Verbum, 8).

Vì thế, Công Đồng Va-ti-can II đã ca ngợi Đức Ma-ri-a vừa là Mẹ Thiên Chúa vì Chúa Giê-su là Con của Mẹ, vừa là Mẹ của Nhiệm Thể của Ngài, tức là Giáo Hội: “Thật vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và trong thân xác, và đã trao ban Đấng là sự sống ấy cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế… Nhưng vì thuộc dòng dõi A-đam, nên Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu độ, hơn nữa, Mẹ ‘là Mẹ các chi thể (của Đức Ki-tô) vì đã cộng tác vào trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu. Vì thế, Mẹ cũng được chào kính như chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Giáo Hội, như mẫu gương và gương sáng nổi bật cho Giáo Hội về đức tin và đức ái, và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, tôn kính Mẹ với tình con thảo như người Mẹ rất dấu yêu” (LG 53).

2.Chúa Giê-su chịu cắt bì và đặt tên (2: 21)

Phép cắt bì là một nghi thức được Thiên Chúa thiết lập để xác định những ai thuộc về dân Chúa chọn. Người đã truyền lệnh cho ông Áp-ra-ham thiết định phép cắt bì như một dấu chỉ Giao Ước mà Người đã ký kết với ông và tất cả dòng dõi của ông (x. St 17: 10-14), khi quy định rằng con trẻ sẽ chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Nghi thức được thực hiện ở tại tư gia hay ở hội đường, kèm theo những kinh nguyện và việc đặt tên cho con trẻ. Vì đã chấp nhận kiếp sống của con người, Chúa Giê-su cũng sống dưới Lề Luật: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì” (2: 21). Với định chế Phép Rửa Ki-tô giáo, lệnh truyền cắt bì không còn được áp dụng nữa. Ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15: 1tt.), các Tông Đồ dứt khoát công bố rằng những ai gia nhập Giáo Hội không cần phải chịu phép cắt bì. Thánh Phao-lô dạy cách minh nhiên rằng phép cắt bì không còn thích đáng trong bối cảnh của Giao Ước Mới được Đức Ki-tô thiết lập (Gl 5: 2tt.; 6: 12tt.; Cl 2: 11tt.).

Tên của Hài Nhi Giê-su có nghĩa “Đức Chúa cứu độ” hay “Đức Chúa là ơn cứu độ”, tức là, “Đấng Cứu Độ”. Tên này được ban cho Hài Nhi không như thành quả của bất cứ quyết định phàm nhân nào nhưng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa mà sứ thần đã truyền đạt cho Đức Trinh Nữ và thánh Giu-se (x. Lc 1: 31; Mt 1: 21).

home Mục lục Lưu trữ