Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 61
Tổng truy cập: 1356422
THÁNH THỂ DẤU CHỈ CỦA ƠN HIỆP THÔNG
THÁNH THỂ DẤU CHỈ CỦA ƠN HIỆP THÔNG
Cuộc sống mỗi ngày quanh ta kết thành vô vàn dấu chỉ. Một tấm biển báo trên đường đi: dấu chỉ của luật giao thông; Một cử chỉ cúi chào: dấu chỉ của lòng kính trọng; Một bông hoa, một cánh thiệp: dấu chỉ của lòng yêu thương, tình bạn, sự luyến nhớ…
Đời sống của Giáo Hội cung không hề khác. Để diễn tả một chân lý đức tin nào đó, Thiên Chúa, Chúa Kitô và Giáo Hội đã sử dụng rất nhiều biểu tượng và dấu chỉ. Chẳng hạn: Cột lửa, cột mây đồng hành với dân Chúa suốt bốn mươi năm trường trong sa mạc là dấu chỉ của sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người; Hòm bia thánh chứa đựng Thập điều là dấu chỉ của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân; Ngón tay, cánh tay, chim bồ câu, lưỡi lửa là dấu chỉ của ơn Thánh Thần; Ánh lửa, nến cháy sáng là biểu trưng của đức tin, của lòng mến…
Và trong muôn vàn biểu tượng ấy, có một biểu tượng trở thành dấu chỉ chất chứa nơi mình nó ơn cứu độ đời đời, mang lại ơn cứu độ cho bất cứ ai tin tưởng và lãnh nhận bằng tất cả lòng thành kính, tất cả tình yêu và tôn thờ Thiên Chúa. Tôi muốn nói đến các bí tích Chúa Kitô đã thiết lập và trao lại cho Giáo Hội.
Vậy bí tích là gì? Thánh Augustinô định nghĩa rất đơn giản: bí tích là DẤU CHỈ HỮU HIỆU.
Dấu chỉ là điều gì đó hữu hình giác quan có thể tiếp thu: mắt có thể nhìn thấy, tay có thể đụng chạm… Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ dù chỉ là một thực tại hữu hình nhưng bản thân nó lại nói cho ta biết một điều gì đó lớn lao, vượt ra ngoài trí hiểu và sự khôn ngoan của ta. Nói chính xác, dấu chỉ của bí tích là biểu tượng của lòng tin cho ta biết những thực tại thuộc về Thiên Chúa, những thực tại dẫu vô hình nhưng là những thực tại có thực mà ta không thể nhìn thấy, chỉ có thể chấp nhận trong đức tin.
Cuộc sống nói chung và cuộc sống đức tin của người Công giáo được đan kết bằng những dấu chỉ, để từ những dấu chỉ đó, diễn tả một chiều kích cao sâu xuyên qua cái hữu hình.
Nhưng không đơn thuần là dấu chỉ, mà bí tích còn là dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì nó sinh hiệu quả, nó có cả một thực tại ở phía sau những gì nó diễn tả. Nói như thế hơi khó hiểu. Bạn có thể hiểu nôm na thế này: ví dụ bạn tặng người yêu một bông hoa. Bông hoa ấy, tự nó không nói lên điều gì, nhưng khi bạn cầm lấy nó mà tặng cho người yêu, bông hoa ấy có một giá trị. Bông hoa ấy trở nên biểu trưng của lòng yêu thương, quý mến mà bạn dành cho người yêu của mình.
Nhưng đấy chỉ mới là dấu chỉ. Chẳng hạn sau khi nhận bông hoa, tự dưng người yêu của bạn cảm động, nghe tâm hồn ấm áp. Chỉ với một bông hoa nhỏ bé ấy thôi, nhưng cả hai dù là người tặng lẫn người nhận sao mà sung sướng, hạnh phúc và gần gũi lạ thường. Bạn ạ, đấy chính là sự hiệu nghiệm của một dấu chỉ, là hiệu quả, là thực tại phía sau những gì mà cành hoa diễn tả.
Bí tích là như thế: những dấu chỉ hữu hiệu. Hữu hiệu vì khi lãnh bí tích, ta cũng đồng thời lãnh nhận tình yêu của Chúa, lãnh nhận sức sống thần linh Thiên Chúa ban tặng cho ta, làm tâm hồn ta mạnh mẽ, đủ cứng cát mà chống lại cám dỗ, chống lại thói hư tật xấu nơi chính bản thân mình. Ngang qua những dấu chỉ của bí tích, ơn Bảo Trợ lớn lao là chính Thánh Thần được ban cho ta. Và ngang qua dấu chỉ của bí tích, ta tham dư vào sự sống hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa chúng ta. Bởi đó, một thực tại hữu hiệu thật lớn lao mà bí tích là dấu chỉ đã diễn tả.
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ: DẤU CHỈ CỦA SỰ HIỆP THÔNG. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác: bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, như Hội Thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng: “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn II). Hay: “Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn III). Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Chúa Giêsu? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa trong ta và ta trong Chúa? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn: Chúa với ta và ta với Chúa: một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Người. Thánh Phaolô đã từng nói: tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Người ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha còn ta chỉ là một với nhau, cùng làm con của Cha.
Nói như thế, không có nghĩa là trong thực tế, chúng ta đã có thể hiệp thông hoàn toàn với nhau. Hiệp thông toàn vẹn là một ước mơ lớn lao của người Kitô hữu. Bởi trong Giáo Hội vẫn còn đó nhieu chia rẽ, mà nỗi đau không phải chỉ một ngày, hai ngày mà nỗi đau bởi thiếu hiệp thông, thiếu sự nên một, trở thành vết thương lở lói qua từng thế kỷ, qua mỗi thế hệ: hết cha ông đến con cháu, vậy mà vẫn chưa có thể lành lặn.
Hiệp thông vẫn là ước mơ bởi lòng ta vẫn còn đó nỗi oán hận anh em, vẫn còn đó sự ganh ghét, và không thể tha thứ cho nhau. Bởi trong gia đình ta còn đó nhiều chia rẽ, đố kỵ. Gia đình ta còn quá coi trọng đồng tiền, vì thế kẻ có tiền trở thành chủ gia, người già yếu, người thất nghiệp bị coi là phế nhân. Quá coi trọng vật chất cho nên trật tự gia đình bị đảo ngược: đứa con có tiền cho nên mặc sức đi sớm về khuya, mặc sức tự tung tự tác, dẫu là cha mẹ cũng trở nên người phục phụ cho nó thay vì nó phải đền ơn báo nghĩa.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu hiểu rõ sự giằn co giữa ranh giới của hiệp thông và chia rẻ. Vì thế nơi Thánh Thể của Người, Chúa ban tang cho ta tình yêu vàsức mạnh. Tình yêu ấy, sức mạnh ấy đã đưa Người hiến dâng mạng sống để làm bùng lên một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt có khả năng phá tan hận thù, phá tan chia rẽ cho ta đến gần với ơn hiep thông. Ay chính là sức sống của người biết tha thứ, biết đặt tình yêu lên trên mọi hố sâu của hận thù, chia rẻ và dám hiến thân cho anh chị em, cho chân lý, cho lẽ sống, để tình yêu, sự hiệp thông được nêu cao và bền vững. Bởi thế mỗi một lần tham dự thánh lễ, mỗi một lần rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể, là mỗi một lần ta học lấy và tập tành lối sống của Chúa Giêsu, đó là một lối sống biết ra khỏi con người mình, biết vượt lên trên mọi ích kỷ, mọi vụ lợi riêng tư mà đến với anh chị em bằng một tấm lòng yêu thương chân thành, một tấm lòng đã mang lấy sự sống của Chúa Giêsu, hơn thế nữa: mang lấy chính Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng ngự trong ta và ta trong Người.
49.Lễ Mình Máu Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
HỒNG ÂN CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Từ ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, ông bà nguyên tổ và con cháu cắt đứt mọi tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, phải xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn và cuối cùng phải trầm luân đời đời trong cõi chết.
Không nỡ để cho loài người phải chìm ngập trong đau khổ và sự chết do tội lỗi gây ra, Thiên Chúa tìm mọi cách cứu vớt loài người để họ được sống hạnh phúc với Người luôn mãi.
Thế là Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người. Kế hoạch đó nhắm đến ba mục tiêu tối quan trọng sau đây:
- Xóa bỏ tội lỗi con người.
- Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.
- Thông ban sự sống cao cấp và viên mãn của Thiên Chúa cho loài người.
Ba mục tiêu cao cả nầy được đạt tới trọn vẹn nhờ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Vậy thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời đến thế?
Có thể trả lời vắn gọn: Bí Tích Thánh Thể, còn gọi là Thánh Lễ, chính là hy tế thập giá của Chúa Giêsu đã khởi đầu cách đây hơn 2.000 năm trên đồi Can-vê và còn tiếp tục diễn tiến qua các thời đại cho đến ngày tận thế. (Giáo lý Công Giáo 1323,1366)
Trăm nghe không bằng một thấy. Muốn hiểu điều cốt yếu của Bí Tích Thánh Thể hay Thánh Lễ là gì thì cứ việc nhìn vào tượng chuộc tội, hoặc muốn thấy rõ hơn thì nhìn vào mười bốn bức tranh đường thánh giá mà các tín hữu vẫn chiêm ngắm vào mỗi ngày thứ sáu hằng tuần. Tượng chuộc tội đó, mười bốn bức họa đường thánh gia đó, minh họa cho thấy hy tế thập giá của Chúa Giêsu diễn ra thế nào. Thánh Lễ ta tham dự hôm nay chính là phần nối tiếp của hy tế thập giá đó và cũng là một với hy tế đó.
1. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình đền tội cho ta.
Luật Chúa đã truyền: “Tội lỗi tất phải đưa đến sự chết” (xem Ê-dê-ki-ên 18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15) mà luật Chúa thì không thể xóa bỏ được. Chiếu theo luật nầy, loài người đã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình nguyện làm Đấng chết thay.
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi dâng mình trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Giêsu chịu đền tội và chịu chết thay cho người tội lỗi để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời. (xem glcg 1365, 1366)
2. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu cho ta được kết hợp nên một với Người và Người ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu có một sáng kiến tuyệt vời: Người hiện diện dưới hình tấm bánh, dưới hình rượu để cho chúng ta được ăn Người, được uống Người. Và một khi đã ăn Chúa Giêsu, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với Chúa như lời Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Thiên Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên một với đại dương, được nước đại dương làm cho trong lành.
3. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu ban sự sống của Người cho ta.
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho mot bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Khi rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta được hòa tan trong Chúa, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho ta như sự sống của thân thể chuyển thông cho từng chi thể. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)
Như thế, Thánh Lễ, hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu là một phương thế tuyệt vời Thiên Chúa dùng để cùng một lúc ban cho chúng ta đến ba hồng ân vô giá, đó là tha thứ tội lỗi cho chúng ta, cho ta được thông hiệp nên một với Chúa và nhat là thông ban sự sống vô cùng cao quý của chính Người cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh Lễ và tận hưởng thiên ân.
50.Lễ Mình Máu Chúa Kitô
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu của hy tế.
Xh 24: 3-8
Sách Xuất Hành trình bày nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Ngài. Giao Ước được đóng ấn bằng máu của hy tế, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của dân Thiên Chúa được biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đối diện với bàn thờ.
Dt 9: 11-15
Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy hy tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với các hy tế của Giao Ước Cũ, vì Đức Ki-tô đã hiến dâng chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới.
Mc 14: 12-16, 22-26
Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, hy tế của Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)
Sách Xuất Hành thuật lại không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi Ai-cập”, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong hoang địa. Chính khởi đi từ giây phút nầy, dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân không có cội nguồn, nhưng ý thức mình là dân được chính Thiên Chúa đích thân phù trợ. Tất cả những ai, sau khi kinh qua một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, thì dân Ít-ra-en luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối quan hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa cũng như vậy.
Họ đã ghi lại những mối quan hệ nầy bằng thuật ngữ Giao Ước, theo cách thức mà con người ký kết ở giữa nhau: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ tuân giữ vài điều khoản của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Về phần mình, họ phải cam kết tôn trọng những điều khoản nầy. Tất cả những truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong bầu khí uy nghi và trình bày Giao Ước trong khung cảnh cử hành phụng vụ.
Bản văn Xh 24: 1-11 gồm có hai bài trình thuật về việc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai. Bản trình thuật thứ nhất (24: 1-2 và 9-11) được đánh dấu bởi lệnh truyền của Thiên Chúa (24: 1) và bởi việc ông Mô-sê thi hành (24: 9), trong khi bài trình thuật thứ hai (24: 3-8) đánh dấu bởi việc “ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân chúng mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật” (24: 3). Bài trình thuật thứ nhất nêu bật việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước thánh nhan Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en (24: 9-11), thì bài trình thuật thứ hai nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân (24: 6-8).
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay trích dẫn bài trình thuật thứ hai (24: 3-8). trình thuật thứ hai này rất đáng chú ý. Trước hết, đây là bản văn mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước Mới. Thứ nữa, nó loan báo sơ đồ của việc cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa (24: 3-4a), đoạn, phụng vụ Hy Tế (24: 4b-5), và cuối cùng nghi thức rảy máu (24: 6-8).
1. Phụng vụ Lời Chúa (24: 3-4a):
Từ trên núi xuống, ông Mô-sê, trung gian giữa Đức Chúa và dân Do thái, tường thuật cho toàn thể con cái Ít-ra-en quy tụ ở dưới chân núi Xi-nai biết “mọi lời của Đức Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (24: 3). Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Đức Chúa” (24: 4a).
“Mọi lời của Đức Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong hoang địa nhưng thuộc về thời kỳ đầu tiên khi dân Do thái định cư ở đất Ca-na-an, sau này được tháp nhập vào Thập Giới và đem lại cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.
Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung điện Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được công bố theo định kỳ.
2. Phụng vụ Hy Tế (24: 4b-5):
Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en. Hai bên ký kết Giao Ước đối diện với nhau: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của dân Ít-ra-en vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân muôn đời bền vững cho lời cam kết trung thành của dân Ít-ra-en. Cũng theo một cách như vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng cam kết lại, ông Giô-suê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).
“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa” (24: 5). Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:
- Trước hết, “hy lễ toàn thiêu”: Như thuật ngữ chỉ cho thấy, tế vật được hỏa tế trọn vẹn dâng tiến Thiên Chúa. Đây là hình thức hy tế cổ xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường: ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, hy lễ toàn thiêu được dâng tiến Đức Chúa hằng ngày.
- Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông”: Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông chính là tế vật được làm thành một bữa ăn và mọi người cùng tham dự bữa ăn trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm tái lập những mối giao hảo giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài.
3. Nghi thức rảy máu (24: 6-8):
Nghi thức được mô tả theo sau là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Những tế vật bị cắt tiết cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, sau đó, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa, phần còn lại ông rảy trên dân chúng. Cuối cùng, ông lập lại lời hứa cam kết trung thành của dân: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.
Sự thỏa thuận của hai phía được đóng ấn bằng máu: máu là biểu tượng của sự sống, chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống, đem lại cho sự cam kết này một hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Việc Đức Giê-su ban chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Giê-su không chỉ đóng vai trò trung gian giao ước như ông Mô-sê, nhưng Ngài còn là tế vật nữa. Không có một sự cam kết nào về phía Thiên Chúa đối với nhân loại lại triệt để tận mức đến như thế. Không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được hiện thực trong Bàn Tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)
Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki-tô là Thượng Tế đích thật. Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki-tô nầy, Phụng Vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với máu của tế vật dưới thời Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki-tô thuộc bản chất khác: một của lễ tự nguyện hiến dâng thuộc vào trật tự thần thiêng và tính hiệu lực thần thiêng của nó.
Chúng ta không biết tác giả của bức thư này là ai và ai là người nhận bức thư này (nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” được thêm vào sau này). Tuy nhiên, chắc chắn ông là một môn đệ hay một cộng tác viên của thánh Phao-lô; và người nhận phải là những Ki-tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ đang phải chịu. Dường như họ vẫn ôm ấp những hoài niệm về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể xem ra quá đơn giản.
1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:
Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước với chức tư tế của Đức Ki-tô. Những so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi thức lễ Toàn Xá diễn ra một năm một lần. Chỉ một năm một lần vào ngày đại lễ này, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chính mình và của toàn dân.
So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki-tô thật sự là cao vời khôn sánh, vì “Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai” (9: 11a). Qua những mô tả, tác giả sắp cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Kitô đã đạt được như thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; tức là những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.
Sự cao cả của sứ vụ Đức Kitô được nêu bật ngay từ đầu bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Giao Ước Cũ, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki-tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy” (9: 11b).
Dường như tác giả nhắm đến Thân Thể vinh quang của Đức Ki-tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như vậy là vĩnh viễn, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Kitô đã khai mở chỉ một lần là đủ con đường dẫn đến Chúa Cha, như tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (10: 10).
Máu mà Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ rảy trên bàn thờ không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki-tô đã tự nguyện dâng hiến chính máu của mình trong một hiến lễ. Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời, trong khi Đức Ki-tô đạt được ơn giải thoát vĩnh viễn.
Những tế vật phải là vô tì vết, ấy vậy, Đức Ki-tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức tinh tuyền và tuyệt đối thánh thiện. Vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực vô cùng tận. Việc rảy máu tế vật đem lại sự thanh sạch nghi thức, trong khi máu của Đức Ki-tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.
2. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.
Tại sao hy tế của Đức Ki-tô lại cao vời khôn ví như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki-tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói đến “Thánh Thần hằng hữu” (9: 14) nhằm làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.
Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ thuộc Thánh Thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng của đời sống nội tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng tiến Thiên Chúa lễ tế xứng với Người.
Hiến lễ của Đức Kitô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẫm máu trên Thập Giá, nhưng còn là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Ngài kể từ khi nhập thể. Tác giả đã áp dụng cho Đức Giê-su Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (10: 5-7).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một nền phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy). Khi ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái, ông muốn cho họ thấy rằng những nghi thức Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Kitô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ” (9: 15). Những ai đã nhận lời hứa ban phúc lộc đời đời, từ nay họ đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.
TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)
Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy, được trích dẫn vào Chúa Nhật lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô năm B, gồm có hai phần: chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16) và thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-26).
1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):
“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua”. Hai ngày đại lễ nầy: lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, từ lâu được cử hành thành một cặp song đối với nhau: lễ Vượt Qua là lễ của những người chăn nuôi theo đó họ giết một con chiên tơ không tì vết; còn lễ Bánh Không Men là lễ của những người trồng trọt theo đó họ tiến dâng những sản phẩm đầu mùa và bánh không men được làm bằng những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dễ dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế “phải được ăn ở trong thành”. Điều nầy khiến các môn đệ lo lắng. Đức Giê-su là một bậc tôn sư lưu động không nơi cố định. Hơn nữa, Ngài là người thuộc miền Ga-li-lê. Ngoài ra, theo sơ đồ của các sách Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần đầu tiên Thầy trò lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc diễn tiến như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Trong cả hai lần, những sự việc xảy ra đúng như Chúa Giê-su đã tiên liệu: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài cùng các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Qua đó, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
2. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo, mà Đức Giê-su cùng các môn đệ cử hành, biến thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo qua việc Chúa Giê-su thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt, vừa song đối sâu xa nhưng cũng mới mẻ tận căn giữa hai lễ Vượt Qua này.
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Người nên đã tha chết cho họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài “đổ ra vì muôn người”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã làm dân Ít-ra-en thành dân Thiên Chúa và ơn tuyển chọn này đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai bởi Giao Ước Cũ.
Nhờ Mình và Máu Thánh của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới bởi Giao Ước Mới được đóng dấu bằng máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua Do Thái giáo soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như thế nào, thì khung cảnh bữa ăn Vượt Qua Ki-tô giáo mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như vậy: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương đến cùng, những người mà Ngài trao phó sứ mạng thông truyền sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; vì thế, Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân Ngài, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi cách thế hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh “giá trị cánh chung” của “bàn tiệc Thánh Thể”. Bàn tiệc này tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14: 25).
Trong nhiều sấm ngôn, cuộc sống tương lai thường được biểu thị như bàn tiệc thời Thiên Sai, còn rượu nho như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời Mê-si-a”, niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của dấu lạ bàn tiệc Thánh Thể: nước biến thành rượu ở tiệc cưới Ca-na tương ứng với rượu biến thành máu của Ngài ở bàn tiệc Vượt Qua.
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát Thánh vịnh xong…”. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi “Hallel”, được hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118; như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su theo Tin Mừng Gioan đích thực là bữa ăn Vượt Qua của Đức Giê-su theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam