Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 82

Tổng truy cập: 1362166

THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

 

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc.

Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc.

Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.

Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go.

Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.

Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành.

Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận.

Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.

Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.

Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.

Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.

Mù không phải là một tội.

Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể.

Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.

Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt.

Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?

Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn... theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?

Cầu Nguyện

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.

 

2.Ngọn đèn đức tin

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

 

3.“Nguồn sáng thật”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay, chu kỳ phụng vụ năm A đều có chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu.

Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói.

Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được. Thế mới thấy những ảnh hưởng và hậu quả tai hại từ những thành kiến trong cuộc sống của chúng ta. Những thành kiến này đôi khi dìm sâu con người, không cho họ cơ hội làm lại cuộc đời để sống như một con người bình thường. Những người Do Thái kỳ thị không muốn thấy anh mù được chữa khỏi. Họ không muốn nhận ra anh, điều đó có nghĩa là họ muốn cho anh mãi mãi là anh mù.

Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của  người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm. 

Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa.

Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại. Trong khi đó, những người anh em khác của Đavít xem ra đầy đủ điều kiện theo cái nhìn loài người, thì lại không được chọn. Thiên Chúa luôn luôn có cách nhìn của Ngài. Cách nhìn ấy không giống cách nhìn của chúng ta.

Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng.

Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta:  “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).

Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.

 

4.Thầy là ánh sáng thế gian - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Helen Keller, người mù nổi tiếng thế giới, tác giả hàng chục cuốn sách có giá trị. Bà dậy đại học và đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Bà sinh năm 1880, 19 tháng sau, bà bị nóng sốt kịch liệt khiến bà điếc và mù. Khi nên năm tuổi, Keller được giáo sư Sullivan dạy đọc và viết bằng chữ nổi và đánh máy chữ đặc biệt. Cuộc đời bà đã được diễn tả thành cuốn phim rất cảm động (Encyclopedia, Funk & Wagnall).

Con người bất khuất đó vẫn không thắng nổi cái mù tăm tối, dù chỉ mù sau khi sinh. Còn loại mù trong lòng mẹ như anh mù trong Tin mừng hôm nay, thì dù khoa học hiện đại cũng phải bó tay. Thế mà Đức Giêsu đã chữa anh khỏi mù bằng phương pháp rất phản khoa học: “Người lấy nước miếng trộn với bùn và xức vào mắt anh” (Ga. 9, 7), cực kỳ lạ lùng! không tưởng tượng được! nhưng có thực trăm phần trăm, vì đã xẩy ra giữa chốn đông người trong ngày lễ Sabat. Chính vì thế nhóm biệt phái đã ra sức điều tra cẩn thận. Họ điều tra anh, cha mẹ anh, những người thấy anh ăn mày. Họ rất bối rối vừa phủ nhận phép lạ vừa kết án Đức Giêsu đã phạm luật lễ nghỉ. Họ kết án cả anh mù: “Mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu” vì theo thành kiến thời đó, bệnh tật là hình phạt kẻ tội lỗi. Nếu họ kết án anh là kẻ tội lỗi bị phạt mù mà bây giờ anh đang sáng mắt thì họ phải nhận có phép lạ và Người chữa anh sáng mắt phải là Đấng có quyền tha tội. Nhưng thật trớ trêu! họ đã tự mâu thuẫn, họ vừa kết án anh là kẻ tội lỗi vừa không tin Đức Giêsu đã chữa anh mù được sáng.

Biệt phái tự coi mình là thầy, là kẻ lãnh đạo tôn giáo. Thời Alexandria (năm 76-67 trước Công nguyên), họ còn lãnh đạo cả đời nữa. Ở địa vị đó họ không chịu thua ý kiến của kẻ mù hèn hạ. Tuy nhiên, ở trường hợp này rõ ràng anh mù lại sáng, còn họ lại trở nên mù, anh đã vạch rõ cái mù của họ: “Kể cũng lạ, các ông không biết ông ấy ở đâu đến, thế mà ông ấy lại là người mở mắt cho tôi!... Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ấy chẳng làm được gì” (Ga. 9, 30-33)

Thế mới rõ kẻ tự phụ mình sáng, mình có quyền, rất khó thấy lẽ phải. Kẻ đơn sơ chân thành khiêm tốn lại được mặc khải ánh sáng: “Tôi đến thế gian này để xét xử: cho người không xem thấy, được thấy, và kẻ tự phụ xem thấy lại hóa đui mù”. Nghe thế họ đã vênh vang cự lại “thế cả chúng tôi cũng đui mù sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui, các ông chẳng có tội, nhưng các ông tự phụ: chúng tôi thấy, nên tội các ông còn đó”.

Nhiều lần Đức Kitô đã cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã không mặc khải cho bậc khôn ngoan thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25-26). Đúng như thánh Phaolô giảng: “Thiên Chúa đã dùng sự thấp hèn để làm hạng khôn ngoan bị nhục nhã, đã dùng sự bất lực để làm kẻ kiêu hùng ra hèn hạ. Ngài đã chọn sự ti tiện, khinh bỉ, không không để phá hủi sự cao cả của thế gian để không ai dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1Cr. 1, 27-29).

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta tin theo Chúa là ánh sáng thế gian, đã ban ánh sáng cho con mắt thể xác cũng như tinh thần. Chúa ban ánh sáng thể xác cho con người tìm thấy nguồn tài nguyên phong phú như những đồng cỏ xanh tươi, những suối nước mát để bồi dưỡng cuộc sống hằng ngày (Tv. 22). Chúa ban ánh sáng tinh thần như soi sáng cho Samuel chọn Davit biết sống theo đường lối Chúa chỉ dậy để trở nên thánh vương cao cả dẫn dắt dân Chúa (Sm. 10, 1-13). Nhất là Chúa làm cho chúng ta nên con cái sự sáng nhờ phép Rửa tội như thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng... là lương thiện, công chính và chân thật” (Eph. 5, 8-9).

Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con nhận biết những tội lỗi con, để Chúa thương cứu con như anh mù, khi Chúa hỏi: “Con có tin Con Người không?” con biết mạnh dạn tuyên xưng: “Thưa Ngài, con tin”.

 

5.Người mù

Lạy Chúa, xin cho con được sáng.

Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?

Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.

Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.

Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.

 

6.Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.

Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.

Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.

Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.

Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?

 

7.Thiên Chúa chăm sóc Dân Người

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Dù một người thuộc bất cứ dân tộc nào, Thiên Chúa vẫn là Đấng tạo dựng họ, vẫn là Đấng yêu thương họ đặc biệt. Thiên Chúa lo lắng chăm sóc tất cả mọi người. Ngài chăn dắt dân Ngài qua các vị lãnh đạo, Ngài nói với mỗi người qua lương tâm, và yêu thương con người đặc biệt qua Đức Yêsu.

1. Qua những vị lãnh đạo

Có hai quan niệm nơi người Do Thái trong buổi đầu thời đại quân chủ. Một quan niệm cho rằng, chấp nhận có vua là mặc nhiên từ chối Thiên Chúa cai quản hướng dẫn mình; quan niệm khác lại cho rằng Thiên Chúa muốn dùng một vị vua để hướng dẫn dân Ngài. Khi tiên tri Samuel xức dầu phong vương cho Saul và sau đó cho Davít, thì quan niệm vua là người Thiên Chúa dùng để cai trị dân đã được đa số người Do Thái chấp nhận.

Thời buổi này, không còn mấy nước theo chế độ quân chủ nữa, nhưng vẫn có những người tương tự, như tổng thống và chủ tịch nước. Những người này là những đại diện Chúa, nên chúng ta phải vâng phục họ. Tuy vậy, khi có những người lãnh đạo hành xử không theo luật Chúa, thì chúng ta không được vâng phục. Chẳng hạn khi họ cho phép hoặc khuyến khích phá thai, thì điều này không có nghĩa là Thiên Chúa muốn điều đó, nên chúng ta không được vâng phục; trái lại, nếu có thể, chúng ta không chỉ có thể mà còn phải phản đối nữa, vì khi đó họ đã dùng quyền hành Thiên Chúa ban để giết hại con người. Chúng ta chỉ không vâng phục trong những điều sai trái thôi, còn những điều khác thì vẫn phải vâng phục. Điều này áp dụng cả cho những bề trên đấng bậc trong Đạo: nếu một người “bề dưới” bị “bề trên” sai bảo làm điều tội hoặc trái lương tâm, thì người “bề dưới” không được vâng lời.

Kitô hữu là người có thể sống dưới mọi chế độ. Ơn gọi Kitô hữu cũng hàm chứa đòi hỏi góp phần xây dựng một xã hội công bình và tốt đẹp hơn. Vì mọi người đều được Thiên Chúa hướng dẫn, nên Kitô hữu cũng phải tin vào những người thành tâm thiện chí cho dù họ không cùng tôn giáo với chúng ta, để cùng họ xây dựng thế giới này. Sống theo điều thiện hảo, cũng là sống theo Chúa và vì Chúa. Khi vì một điều tốt đẹp mà phải hy sinh hay thiệt thòi, thì cũng là tử đạo theo một nghĩa nào đó. Chẳng hạn trường hợp Yoan Tẩy Giả chết vì lên tiếng cản ngăn không cho Hêrôđê lấy vợ anh mình. Yoan đã chết vì Chúa, cho dù ông chết vì đã nói sự thật, nói lên ý muốn của Chúa biểu lộ qua luật lệ hay nơi lương tâm con người.

2. Qua tiếng lương tâm

Thiên Chúa tỏ lộ ý muốn của Ngài qua Kinh Thánh, qua luật lệ cả Đạo lẫn đời, và Ngài còn tỏ lộ ý muốn của Ngài cho mỗi người cách đặc biệt nơi lương tâm mỗi người. Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa qua “lý trí hướng về điều thiện hảo”. Chẳng hạn, phải làm điều tốt, phải tránh điều xấu, điều này xấu không được làm, điều kia tốt nên làm.

Không ai được làm ngược tiếng lương tâm của mình. Nếu tôi thấy điều nào không tốt, tôi không được làm theo. Lương tâm là “lý trí hướng về điều thiện”, không phải là lý trí biện minh cho hành động của mình. Có nhiều trường hợp, con người dùng lý trí để biện minh cho điều mình muốn làm, hoặc biện minh cho điều có lợi cho mình. Trường hợp này lý trí là công cụ của lòng tham muốn và cái tôi, chứ không là lương tâm, không là dụng cụ Thiên Chúa nói với con người. Trong cuộc sống, ở những trường hợp đặc biệt, lương tâm là tiêng nói cuối cùng mà mỗi người phải tuân theo.

Không hề có sự mâu thuẫn giữa luật Chúa và lương tâm, vì cả hai đều bởi Chúa. Nếu có mâu thuẫn, thì hoặc mình hiểu sai luật Chúa, hay mình ngộ nhận là tiếng lương tâm mà thực sự không phải.

3. Qua Đức Yêsu Kitô

 Thiên Chúa nói tiếng nói dứt khoát của tình yêu qua Ngôi Lời Nhập Thể- Đức Yêsu. Đức Yêsu là người trọn vẹn, là người như tất cả mọi người. Ngài chia sẻ thân phận con người, chịu đói chịu khát, có những khuynh chiều của thân xác như tất cả mọi người, bị cám dỗ mãnh liệt như tất cả những ai khác. Để rồi qua Ngài, con người biết làm sao để trở nên người tuyệt vời. Con người trở nên tuyệt vời, trong mức độ họ sống và suy nghĩ, chọn lựa, hành động như Đức Yêsu đã sống, suy nghĩ, chọn lựa và hành động.

Qua việc chữa người mù từ thuở mới sinh, Đức Yêsu mặc khải cho biết Ngài là ánh sáng. Ngài không chỉ là ánh sáng, hiểu theo nghĩa giúp người mù được thấy, nhưng Ngài là ánh sáng hiểu theo nghĩa, qua Ngài con người nhận biết sự thật uyên nguyên là chính Thiên Chúa, và cũng nhờ Ngài con người hiểu biết hơn về chính con người. Khi con người nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và cũng nhận biết con người là tạo vật tuyệt vời. Nếu con người không đáng quý và tuyệt vời, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Được làm người, đó là một ơn vô cùng lớn.

Chọn lựa trong cuộc sống hằng ngày, là chọn lựa Thiên Chúa hay không. Chẳng hạn, người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay không sẵn sàng đón nhận Đức Yêsu- một con người mà họ gặp trong cuộc sống, là họ không đón nhận Thiên Chúa. Chấp nhận tha nhân trong sự thật, là đón nhận Thiên Chúa. Anh mù, mù về thể lý, nhưng sáng trong việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa; trong khi những người biệt phái là những người có học và có tiếng là đạo đức, thì lại không nhận ra Đức Yêsu là người của Thiên Chúa. Có tật mù thể lý, nhưng cũng có tật mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật, đó có thể là thành kiến về tha nhân, hoặc chính cái tôi che khuất không cho mình thấy sự thật.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin liệt kê những nét xấu và nét đẹp của Đavít. Theo bạn, đâu là nét đẹp nhất của Davít?

2. Đâu là tiêu chuẩn đánh giá con người, của bạn và của Đức Yêsu?

3. Với ánh sáng “Đức Yêsu”, bạn nhận ra điều gì đặc biệt trong đời?

4. Bạn có nhận ra Thiên Chúa can thiệp và hướng dẫn đời bạn không? Xin chia sẻ.

 

8.Cái làm người vô học tuyệt vời

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Đức Yêsu đã chữa người mù bằng cách, nhổ nước miếng trộn làm bùn xức vào mắt anh mù và nói anh đi rửa tại ao Siloam, anh đã đi rửa và đã thấy. Vào trường hợp của tôi, tôi có để Đức Yêsu làm như vậy không?

Anh mù được sáng mắt, khi người ta không biết có phải anh là người mù vẫn ngồi ăn xin không, anh đã can đảm nhận mình đã là người mù ngồi ăn xin tại đền thờ! Anh mù được sáng đã dám nhận quá khứ "ăn xin" của mình, còn tôi, tôi có can đảm chấp nhận quá khứ của đời mình không?

Anh mù dám tỏ quan điểm lập trường của mình về Đức Yêsu, và dám giữ lập trường này trước bao người có quyền thế chống lại Đức Yêsu, thậm chí cả trong trường hợp bị trục xuất khỏi hội đường! Tôi có can đảm như anh mù không?

Cái gì đã ngăn cản những người biệt phái nhận ra Đức Yêsu từ Thiên Chúa đến? Cái gì đã làm họ hiểu sai về Đức Yêsu khi cho rằng Ngài là người tội lỗi (Ga.9, 24)? Tại sao người vô học như anh mù lại có nhận định đúng về Đức Yêsu, còn những người học cao hiểu rộng như những người biệt phái và luật sĩ lại hiểu sai về Đức Yêsu?

Người biệt phái đã kết án Đức Yêsu là người tội lỗi, vì Đức Yêsu không giữ ngày sabbat! Với Đức Yêsu: làm sao để cứu con người; còn với người biệt phái: làm sao để giữ luật. Luật là tuyệt đối đối với người biệt phái; còn với Đức Yêsu, con người rất quan trọng! Trong cuộc sống, chúng ta có coi những luật lệ và nguyên tắc là tối cao không? Có bao giờ chúng ta nhân danh luật lệ và nguyên tắc để xúc phạm và hủy diệt con người không?

Cha mẹ người mù "quá khôn ngoan" nên đã từ chối câu trả lời về Đức Yêsu, để được yên thân! Trong cuộc sống, tôi có lấy "sự khôn ngoan" đó làm tiêu chuẩn sống của tôi không?

Xin Chúa mở mắt con,

để con nhận ra những kỳ công Ngài thực hiện cho con người,

để chúng con ca tụng Chúa, và yêu thương tôn trọng con người

như Chúa đã yêu thương và tôn trọng.

home Mục lục Lưu trữ