Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1361132

THẦY LÀ ĐỨC KYTÔ

THẦY LÀ ĐỨC KYTÔ

 

Hiệp nhau trong Thánh lễ này, chúng ta xin Chúa ban mọi ơn lành cho cuộc sống của chúng ta, nhưng đồng thời chúng ta cũng xin Chúa tha thứ những lỗi tầm vì đã nhiều lần chúng ta không cộng tác với ơn Chúa, đã không dùng ơn Chúa cho nên. Xin Chúa tiếp tục thương đổ muôn ơn lành xuống trên cuộc đời của chúng ta, giúp chúng ta canh tân đời sống để mỗi ngày được trở nên giống Chúa hơn.

Đoạn Tin Mừng hôm nay được suy niệm hai lần: một vào dịp lễ kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, và một trong Chúa Nhật 21 Thường niên hôm nay. Biến cố được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hai đặc điểm về hai con người nơi thánh Phêrô: Đó là một con người của ân sủng, biết cộng tác với ơn soi sáng của Chúa để tuyên xưng đức tin chân thật: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Và một là con người yếu đuối trần tục suy tưởng theo cách thức trần gian, bị giới hạn trong cái nhìn vụ lợi không chấp nhận, không hiểu chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thực hiện qua mầu nhiệm Thập giá, qua cái chết và sống lại của Chúa Kitô, đến độ thánh nhân đã bị Chúa quở trách: "Hỡi Sa tan, hãy lui ra khỏi Ta, vì con suy tưởng theo lý luận của con người, chứ không theo tư tưởng của Thiên Chúa. Vì con biết những sự thuộc về loài người, mà chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa".

Nơi mỗi người chúng ta, những đồ đệ của Chúa, dù ở bậc nào đi nữa, chắc chắn chúng ta cũng có hai con người này: một con người được ân sủng thánh luyện, thánh hoá, soi sáng và hướng dẫn. Đây là con người mới theo cách nói của thánh Phaolô tông đồ. Và một con người cũ có thói quen tật xấu, suy tư theo những lý luận trần tục xa rời chương trình của Thiên Chúa.

Hơn ai hết, thánh Phaolô tông đồ đã cảm nghiệm được kinh nghiệm sống này nơi chính bản thân, nên có lần ngài đã thốt lên: "Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, tôi lại làm điều xấu mà tôi không muốn". Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi này đã làm cho ngài đôi khi mệt mỏi, nên đã phải xin Chúa can thiệp để cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ thánh Phaolô: "Ơn Ta đủ cho con. Đừng sợ!”. Chính vì thế mà hơn ai hết, thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cuộc sống với Chúa Kitô, cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một cuộc chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng để cộng tác với ân sủng của Chúa, để mặc lấy con người mới và từ bỏ con người cũ của mình.

Trở lại bài Phúc âm hôm nay, chúng ta có thể nhận thấy thêm một điểm nữa là mặc dù Phêrô đã nhiều lần, chứ không phải chỉ một lần mà thôi, là ngài đã nhiều lần sống theo con người cũ, con người trần tục. Nhưng Chúa Giêsu, Ngài đã không thay đổi chương trình Ngài đã chọn, đã sắp xếp cho Phêrô: "Ơn Ta đủ cho con". Chúa đã muốn xây dựng Giáo Hội của Ngài trên con người của Phêrô, trên con người được ơn Thiên Chúa soi sáng: "Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời". Ơn Chúa luôn ban xuống tràn đầy, Ngài không muốn bỏ chương trình Ngài đã thực hiện qua mỗi người chúng ta, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng mình về ân sủng của Chúa, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ Phêrô: "Khi nào con trở lại, hãy nâng đỡ và củng cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô là hãy biết thông cảm nâng đỡ anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ, nâng đỡ thông cảm khi ông lỗi lầm.

Thêm một bài học nữa cho mỗi người và cho cộng đoàn chúng ta đang sống cũng như cộng đoàn các tông đồ sống quanh Chúa Giêsu ngày xưa, tất cả các cộng đoàn ấy cũng gồm những con người vừa tốt, vừa xấu, vừa thánh thiện vừa tội lỗi, vừa muốn làm điều tốt mà mình không làm được, nhưng lại làm điều xấu mà mình không muốn, vừa cộng tác với ơn Chúa, nhưng đôi khi cũng chối bỏ Ngài.

Chúng ta hãy cố gắng phát triển con người mới, con người được ân sủng Chúa thánh hoá để luôn giữ vững đức tin của mình mà tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và chấp nhận đi trên con đường mà Chúa đã đi qua, con đường cứu rỗi nhân loại qua cái chết và sống lại của Ngài trên Thập giá: "Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác Thập giá mình hằng ngày mà theo Ta".

Chúng ta hãy cố gắng phát triển con người mới nơi cuộc sống của mình và đồng thời biết thông cảm nâng đỡ với những bất toàn tội lỗi của anh em xung quanh. Dù sao đi nữa, chương trình của Thiên Chúa không bị hư đi vì những tội lỗi của con người hay vì những lầm lỗi sai trái của Phêrô, nhưng chỉ vì yêu mà Thiên Chúa luôn thực hiện chương trình cứu rỗi nhân loại. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được vững mạnh trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

17. Khúc rẽ quyết định

Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Giođan, Đức Kitô nêu lên cho các môn đệ một vấn nạn quan trọng: “Các con nói thầy là ai? Nói chung những người khác không nhận biết Ngài, và bây giờ, các môn đệ phải phát biểu ý kiến về Ngài.

1) Vấn nạn

Đức Kitô không hỏi: Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải? Nhưng Ngài hỏi cách trực tiếp: “Các con nói Thầy là ai?” Đức tin Công giáo trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều. Đối tượng của đức tin Công giáo là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu. Con người chỉ có thể có một thái độ duy nhất là nhận biết hay không nhận biết Ngài. Lập trường đối với Chúa Giêsu là yếu tố quyết định để phân biệt ai là Công giáo, ai là lương dân. Vậy luân lý không phải là yếu tố cốt yếu nhưng chính là đức tin. Nếu có người nhờ đức tin hiểu được Chúa Giêsu là ai, tự nhiên họ sẽ lãnh nhận lời Ngài, và nhất thiết đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Đức tin vào Đức Giêsu Kitô là tất cả! Kitô giáo là thái độ chấp nhận Đức Kitô.

2) Lời đáp trả

“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài là tiên tri được Chúa thánh hiến. Ngài là vua, là chánh tế. Ngài còn hơn tất cả những tước hiệu ấy, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai lý do vững chắc. Trước hết, nhờ suy tư và tác động đức tin của Phêrô: Người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Tất cả những gì xẩy ra trước kia nay đều đem lại hậu quả mong muốn nơi Ngài: Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trở giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Phêrô đã hiểu các dấu hiệu, rồi từ đó đạt tới tác nhân của các dấu hiệu. Ngoài ra để tuyên xưng Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống, người còn được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong “Không phải huyết nhục cho con biết điều ấy, nhưng chính Cha ta ở trên trời đã tỏ lộ cho con! Đức tin quả thật đã hợp nhất hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên.

3) Kết quả

Câu trả lời này đã hình thành một thái độ chọn lựa quyết liệt, đưa tới một khúc rẽ lớn lao trong toàn thể lịch sử: đó là bước tiến từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Do Thái xác thịt sang Do Thái thiêng liêng, từ giảng đường đến Giáo Hội, từ việc tuyển chọn một dân tộc đến tiếng gọi gửi đến muôn dân. Vì thế, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Kitô hứa xây dựng Giáo Hội. Đây là sự chọn lựa vĩnh viễn. Không gì có thể chiến thắng Giáo Hội kể cả quyền lực ma quỷ. Còn một lối chú giải khác về câu “Cửa hoả ngục không thể nổi lên chống lại”, theo lối chú giải đó, thì câu này có nghĩa là Giáo Hội có quyền mở cả cửa Thiên đàng và hoả ngục, cả hai lối chú giải trên đều làm sáng tỏ một ý nghĩa sâu xa, nhằm mô tả tính chất vĩ đại siêu nhiên và thần linh của Giáo Hội.

Tính chất vĩ đại ấy dựa trên hai cột trụ: tinh thần và định chế. Tinh thần chính là đức tin vì nhờ đức tin Phêrô được khen ngợi là diễm phúc. Do đó, chỉ có ai tin mới thuộc về Giáo Hội này. Đức tin là nền tảng và là cội rễ. Cột trụ thứ hai là định chế. Vị tông đồ đầu tiên khi tuyên xưng đức tin, đã được Đức Kitô trao cho chức vụ thủ lãnh: “Ta trao cho con chìa khóa nước trời, và tất cả những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc, những gì con tha dưới đất, trên trời cũng sẽ tha”. Simon con Giona được nâng lên cao khỏi chính bản thân hèn yếu của mình, được Con Thiên Chúa trao phó sứ mệnh, lãnh nhận quyền cai trị tối cao, tượng trưng bằng chìa khóa rồi nhờ danh Chúa, Người thực hiện quyền cầm buộc và tha thứ.

Một Giáo Hội hoàn toàn thiêng liêng không phải là Giáo Hội Đức Kitô, Giáo Hội Chúa cũng không phải là hoàn toàn định chế. Giáo Hội Đức Kitô chỉ hiện diện trong sự hoà hợp thâm sâu giữa tinh thần và định chế, giữa đức tin và uy quyền.

Tất cả đoạn văn thánh này đã toát ra niềm hân hoan của Chúa Giêsu. Từ nay, những lời giảng và phép lạ của Ngài đã làm chứng. Như thế, đoạn văn này vừa cho thấy một tính chất khởi thuỷ, lại vừa biểu lộ một trạng thái đạt đích: đoạn văn có phác hoạ một khúc rẽ trung thực, một thái độ đoạn tuyệt và chấp nhận: được lời Chúa khai mào, các phép lạ hỗ trợ, con người đi tới chỗ lãnh nhận đức tin. Vậy chính ngôn ngữ và hành động thần linh đã đặt nền móng Giáo Hội.

 

18. Giáo Hội

Sau khi đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta có những cảm giác nào? Điều mà tôi ghi nhận và muốn chia sẻ giờ đây, đó là Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội như là một tổ chức. Đã là một tổ chức thì phải có người điều hành và phải có những người phục tùng. Đồng thời Giáo Hội cũng phải có đủ mọi quyền hành như cai trị, giáo huấn và thưởng phạt… những quyền này Giáo Hội nhận thẳng từ Đấng sáng lập, chứ không phải do những thế lực trần gian… Giáo Hội ấy được xây dựng trên nền tảng Phêrô, bảo đảm và kiên cố, không một ai kể cả hỏa ngục không thể lay chuyển được. Giáo Hội sẽ tồn tại bao lâu còn con người sống trên mặt đất.

Chúng ta phải tin tưởng và xác tín như thế, vì hằng ngày qua những phương tiện truyền thông, chúng ta ghi nhận những điều làm cho chúng ta hoang mang lo sợ cho tương lai của Giáo Hội. Nào là những khó khăn tự bên trong khiến cho Giáo Hội bị rạn vỡ. Nào là những khó khăn tự bên ngoài như muốn đè bẹp Giáo Hội. Hãy vững niềm tin vì Chúa Giêsu đã phán: Trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và quỷ hỏa ngục cũng không làm chi được. Đồng thời hãy lo kiến thiết Giáo Hội với khả năng nhỏ bé của mình, vì Giáo Hội là tòa nhà Đức Kitô đã đặt nền móng và chúng ta có bổn phận phải xây dựng thêm.

Tiếp đến, Giáo Hội phát triển không phải bằng những thế lực và sự khôn ngoan trần thế, nhưng là bằng con đường thập giá, bằng những khổ đau, nghĩa là bằng sức mạnh của tình yêu.

Trong thực hành, nếu chúng ta đi đúng vào quan niệm của Chúa thì chúng ta sẽ không bao giờ nản chí và thất vọng. Vì những bách hại và sóng gió đã có trong chương trình của Chúa. Là những người tông đồ, chúng ta không bao giờ dựa trên những thế lực trần tục để phát triển Giáo Hội, vì như thế sẽ không đem lại kết quả, mà có kết quả thì kết quả ấy cũng sẽ không bền vững. Người tông đồ của Chúa là người biết đem hy sinh, đem tình thương để chinh phục… Đó là những thứ khí giới không sức nào chống lại và như vậy thành công sẽ chắc chắn và bền bỉ, vì tình yêu thì mạnh hơn sự chết.

Và sau cùng, đoạn Phúc âm này khiến chúng ta noi gương bắt chước Chúa một điểm, đó là hãy dò hỏi dư luận chung quanh về đời sống của mình. Người ta nghĩ gì về tôi. Khi sống giữa anh em cùng đạo, tôi sẽ nghe họ bàn tán gì về tôi. Là người Công giáo tốt lành tầm thường hay chỉ là kẻ khô khan nguội lạnh, hữu danh vô thực, chỉ có cái tên gọi là Kitô hữu còn đời sống thì không lấy có một phản ảnh nhỏ nhoi nào cho tinh thần của Chúa. Còn những anh em, bè bạn ngoại giáo, họ nghĩ gì về tôi. Hay nhiều lần họ đã mỉa mai. Không ngờ hắn có đạo mà cũng như vậy ư. Tôi tưởng người Công giáo như thế nào, chứ như vậy thì nào có chi đáng nói.

Hãy sống thế nào, để người khác, khi nhìn vào chúng ta cũng phải thốt lên: người này là con Thiên Chúa.

 

19. Người Kitô hữu

Trong những dòng cuối của sứ điệp: “Hoà bình dưới thế”, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi một tín hữu trong thế giới của chúng ta là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên, quả thật người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản, cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hoá bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người tín hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về cuộc sống ấy. Trong những việc làm của mình, và nhất là cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã không ngừng là một câu hỏi cho tất cả chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi đó Chúa không ngừng đặt ra cho chúng ta và yêu cầu chúng ta sống đúng với niềm tin của mình. Ai trong chúng ta cũng phải trả lời được Chúa Giêsu là ai? Là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến trần gian để dạy bảo Tin Mừng, để cứu chuộc chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta, qua cuộc sống của mình, chúng ta cũng luôn là câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm ẩn dật đến đâu, dù bé nhỏ vô danh đến đâu, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh. Nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Thực vậy, giữa một xã hội đầy giành giật, đầy bon chen, lấy tiền bạc làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô sẽ vẫn là một câu hỏi, nếu chúng ta sống trong tinh thần khó nghèo, chấp nhận thua thiệt, mất mát hơn là bán đứng lương tâm để chạy theo điều phi pháp. Có một số người lấy hận thù, ăn miếng trả miếng làm luật sống, người Kitô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn yêu thương với mọi người, sẵn sàng tha thứ và theo Chúa cho đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi, thất vọng, người Kitô vẫn mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu trong lịch sử con người. Giữa xã hội mà sự thành thật với nhau đã trở thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sống thành thật, sống tử tế, tốt đẹp với mọi người, ngay cả đối với chính kẻ thù của mình… Sống như thế quả là không dễ, là một đòi hỏi cam go, nhưng Chúa đòi chúng ta phải cố gắng sống được như thế nếu chúng ta muốn là một Kitô hữu đúng danh, nếu chúng ta muốn làm chứng cho Chúa.

Trong tiểu sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: “Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đơ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi: tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc đang cầu nguyện.

Mọi Kitô hữu chân chính đều phải tự hỏi mình: tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế. Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giêsu đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho Cha?”, cũng có nghĩa là “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha?”. Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời.

 

20. Thầy là ai?

Rembrandt vẽ Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tối. El Greco trình bày một Đức Giêsu đòi hỏi và hoang dã, hơi gầy và tình cảm. Còn Angelico miêu tả một Đức Giêsu ngọt ngào giống như thiên thần. Có những hình vẽ Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành, hiền từ và yêu thương, ôm lấy những con chiên hay bế trẻ thơ trong cánh tay. Có hình vẽ Đức Giêsu là quan án, nghiêm khắc, ngồi trên ngai, đang nhìn thấu suốt tâm tư của con người.

Điều không ai nghi ngờ là, con người được miêu tả nhiều nhất trong nghệ thuật trải qua bao thế kỷ, là Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta vẫn tiếp tục vẽ ra hình ảnh của Ngài. Bài Phúc âm hôm nay, nói đến sự kiện Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Họ trả lời: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Ngài hỏi thẳng các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

William Barclay đã nêu lên những lý do rất hợp lý giải thích tại sao Chúa Giêsu lại rút về vùng Caesarea Philippi để dạy cho các môn đệ biết Ngài là ai. Vào thời điểm này, Chúa Giêsu phải đối diện với một vấn đề rất gay go. Cuộc đời trần thế của Ngài quá ngắn ngủi, đã có ai thực sự hiểu và nhận biết Ngài là ai chưa? Vì thế, Chúa đã chọn lựa rất kỹ lưỡng địa danh này để đặt câu hỏi “Thầy là ai?”

Theo William Barclay, vùng Caesarea Philippi cách biển Galilêa 25 dặm về phía đông bắc, ngoài vùng đất cai trị của vua Hêrôđê, đa số dân chúng không phải là Do Thái, chịu ảnh hưởng của những thần ngoại đạo, với nhiều đền thờ cổ thờ thần Baal của người Syrian. Vùng này lại có nhiều hang động nằm sâu trong núi. Một trong những hang này được tin tưởng là nơi sinh ra của vị thần Pan, thần của vũ trụ. Những huyền thoại về các thần của người Hy Lạp đã được gom góp lại trên phần đất này. Xa hơn nữa, hang này đã được truyền tụng là nơi xuất phát ra những nguồn suối nước tạo nên dòng sông Giođan. Nhưng quan trọng hơn hết, có một đền thờ vĩ đại bằng cẩm thạch trắng để thờ vị thần của hoàng đế Caesar.

Đang khi nhóm người Do Thái chính thống âm mưu giết Ngài như một kẻ rối đạo, Ngài đi đến một vùng đất thiêng thánh nhất của dân ngoại để mạc khải sự thật của Ngài. Đây là một bối cảnh có ý nghĩa sâu xa và có lẽ cũng là nơi an toàn để Chúa Giêsu cùng với 12 môn đệ tuyên xưng niềm tin. Qua lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mạc khải về thần tính của Ngài ở địa vị tối thượng trên hết mọi thần linh.

Câu trả lời của thánh Phêrô là kết quả của những ngày tháng gặp gỡ chính con người Đức Kitô. Ông đã quan sát đời sống hằng ngày của Ngài khi giảng dạy, làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, kêu gọi dân chúng thay đổi đời sống, tiếp xúc với những người tội lỗi, phụ nữ và trẻ em, ăn uống, gần gũi và yêu thương những người bị bỏ rơi… Khi sống chung với Đức Giêsu Kitô, sự nhận thức của Phêrô về Ngài được mở ra dần dần. Ông nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Lời tuyên xưng phát xuất từ sự gặp gỡ chân thành trong tâm hồn của Phêrô.

Đức Tổng giám mục Oscar Romero của El Salvador, người đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, đã phát biểu một cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ… Kitô giáo là một con người… Kitô giáo là Chúa Kitô”.

Chính sự kết hợp mật thiết và gắn bó với Chúa Giêsu mà Phêrô đã được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.

 

home Mục lục Lưu trữ