Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1356361

THÈM KHÁT

THÈM KHÁT

 

Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.

Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay. Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng đã tỏ ra bực bội tức tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.

Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau… Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có. Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.

Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta. Điều răn thứ chín quy định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: chớ tham của người. Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài sản của người khác mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian.

Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta.

Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.

 

26.Những điều nghịch lý

(Suy niệm của Jean Yves Garneau)

Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ bình thường.

Trong những đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút ra hai điều nghịch lý: Điều thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của Tin Mừng.

Bị người nhà của Ngài chối bỏ.

Sau một chuyến đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng vang thuận lợi về Ngài.

Ngài rao giảng như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm phép lạ, Ngài chữa lành bệnh nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở về cứ tưởng người ta sẽ đón rước Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con cái của quê hương không được đón tiếp niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà Maria lại có thể là người đã được ca tụng như thế, liệu ông ta có làm được những gì mà người ta nói rằng ông ta đã làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết: “Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về Ngài”.

Khi đọc bản văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất thường người ta phải khó nhọc lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng –không phải của con cái hoặc những thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là của những người lối xóm, những người đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này không phải là không có hậu quả tiêu cực, bởi vì chúng làm tổn thương người khác và ngăn cản những dự định tốt.

Khi đọc bài Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón nhận (hoặc không đón nhận) và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần chúng ta, là chứng nhân của Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do bởi sự sốt sắng của nó; Người hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người thiếu niên này chống lại cái mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta. Vị linh mục này, nhân danh Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và suy tư của chúng ta. Bởi vì chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ quá!) bởi vì chúng ta biết những tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta có khuynh hướng hạ giá chứng tá của họ.

“Một ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia đình mình mà thôi”. Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta thường thấy xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng với bà con của mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình, nơi giáo xứ, môi trường của mình… ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng Chúa Giêsu đã bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.

Sức mạnh trong nỗi yếu đuối.

Nghịch lý thứ hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi người đặt trong miệng Thiên Chúa Lời này: “Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức trong sự yếu hèn”. Con người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào những khả năng của mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi họ. Trái lại họ càng khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ hiện nơi họ.

Nghịch lý thực sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày và những gì nhiều lần chính chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống trị kẻ khác… mới thành công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn với những gì Thiên Chúa nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những kẻ bé mọn, nghèo nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những kẻ xác tín rằng nếu mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ sự cao cả của mình nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.

Đức Maria, một phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết bao nhiêu điều tuyệt diệu Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh Phaolô, một con người kiêu hãnh và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều nơi thân xác và đã trở thành một người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người nữa, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả.

Bao giờ cũng thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc qua họ. Những kẻ coi như không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường chọn để thực hiện những dự tính đẹp đẽ nhất của Ngài.

Ta hãy kết thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ, những nỗi bất lực của chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta hãy phục vụ Chúa hết mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết bao lần Ngài đã thực hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của Ngài nơi nỗi yếu hèn của chúng ta.

 

27.Những mạc khải phi thường

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Như tuần trước đã chia sẻ, Chúa Kitô đã tái sinh con người bằng việc tỏ mình ra của Người, trước hết bằng “nước” qua các sinh động của nhân tính Người, rồi sau đó bằng “Thần Linh” khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Việc Người tái sinh con người bằng “nước”, qua lời Người nói và việc Người làm, là để con người tin vào Người, là để con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ con người có biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh hay chăng, tức có biết chấp nhận những lời Người nói và việc Người làm hay chăng, đúng hơn có biết chấp nhận chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) hay chăng? Đó là vấn đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B, vấn đề liên quan đến thái độ đáp ứng của dân Do Thái, một thái độ cứng lòng tin của dân này, một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn và được Ngài tỏ mình ra cho suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, một mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazaret, Vị Thiên Sai của Ngài.

Thật vậy, việc dân Do Thái đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, (một Mạc Khải được thể hiện qua Giao Ước và Lề Luật của họ do Chúa đã tự ký kết với họ và ban bố cho họ), bằng thái độ cứng lòng của dân Do Thái đã được chính Thiên Chúa minh định qua miệng tiên tri Êzêkiên trong bài đọc một như sau: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng những người Do Thái, đến cùng những kẻ phản loạn chống lại Ta; họ và cha ông họ đã phản chống Ta cho tới ngày hôm nay. Ta sai ngươi đến với họ là những kẻ dầy mặt và cứng lòng”. Thái độ thiếu đáp ứng đến cứng lòng này của thành phần dân tuyển chọn này được bộc lộ rất rõ ràng nơi thánh phần dân Do Thái ở quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người. Ở chỗ, trước Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô, họ đã đặt vấn đề: “Làm sao hắn lại có được tất cả những điều này nhỉ? … Khôn ngoan…? …. Các việc lạ lùng….? Hắn chẳng phải là một tay thợ mộc, đứa con trai của bà Maria, anh em của James, Joses, Judas và Simon hay sao? Và chị em của hắn không phải là dân làng của chúng ta hay sao?” Thánh Ký Marcô tóm lược nội dung thắc mắc của họ như sau: “Họ thấy Người quá sức đối với họ”. Đến nỗi, vị tác giả Phúc Âm này kết luận: “Người không làm một phép lạ nào ở đó, ngoại trừ chữa một ít người bị bệnh bằng cách đặt tay lên họ”. Chưa hết, “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”.

Qua những câu Phúc Âm vừa trích dẫn trên đây, chúng ta thấy, trước hết, muốn thấy phép lạ hay muốn được hưởng phép lạ cần phải có đức tin. Việc Chúa Kitô thực sự có làm một vài phép lạ ở quê quán của Người bấy giờ chứng tỏ không phải tất cả mọi người không tin vào Người. Song kẻ tin vào người thường là thành phần xấu số bất hạnh, như thành phần khốn khổ, thành phần mong được Đấng Quyền Năng giải cứu cho khỏi cảnh khốn khổ của mình, thành phần Đấng Toàn Năng thực sự cũng muốn sử dụng hay lợi dụng để tỏ vinh hiển của Người ra, như trường hợp thiếu rượu ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:11), hay trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3), nhất là trường hợp Lazarô ở Bêthania (x Jn 11:4). Tuy nhiên, khi tỏ mình ra cho một cá nhân nào hay nơi một cá nhân nào, Thiên Chúa cũng muốn qua cá nhân ấy tỏ mình ra cho những người khác nữa. Ba trường hợp vừa được viện dẫn trên đây đã cho thấy rõ ý định này của Chúa Giêsu. Thậm chí chính việc Người tỏ mình ra cho riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp cũng đã trở thành động lực thúc đẩy chị làm cho dân làng chị tiếp đón Người để rồi đi đến chỗ tự động nhận biết Người (x Jn 4:39-42).

Nếu mục đích của Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), và Người đã làm hết mình để cho con người nhận biết Cha qua Người, thì quả thực Người chỉ khao khát được mọi người nhận biết và yêu mến, đúng như Người đã có lần bày tỏ nỗi niềm thao thức của mình: “Thày đến để thắp sáng trên thế gian. Thày muốn cho nó bừng lên biết bao!” (Lk 12:49). Bởi thế, một khi không được mãn nguyện, về bản tính loài người, Người làm sao không thật sự cảm thấy buồn phiền, một nỗi buồn phiền sâu xa day dứt, đúng như Thánh Ký Marcô đã nhận định về Người ở gần cuối bài Phúc Âm “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”. Thế nhưng, Người vẫn không nản. Chính vì thế mà Người càng phải nỗ lực tỏ mình ra hơn nữa cho con người, không ở nơi này thì ở nơi khác, không vào lúc này thì ở lúc kia, nhất là cho thành phần chiên lạc của Người, thành phần nghe thấy tiếng của Người và cũng là thành phần Người đến tìm kiếm cho bằng được, cho đến khi họ đi theo Người (x Jn 10:27,26). Đó là lý do, bài Phúc Âm đã kết luận bằng câu: “Thế nhưng, (tức là cho dù có cảm thấy hết sức buồn phiền về tình trạng thiếu lòng tin nơi quê quán của mình), Người đã rảo khắp các làng mạc lân cận để giảng dạy”.

Nếu Chúa Kitô đã khẳng định với người Do Thái: “Chiên Tôi thì nghe tiếng của Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), và Người cũng đã khẳng định với tổng trấn Philatô: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), thì quả thực ai được nghe Lời Chúa đã là một đặc ân và ai nghe được Lời Chúa là càng là một ơn phúc chứ không phải chuyện thường. Tức là muốn nghe được Lời Chúa vô cùng sâu nhiệm như chính Thượng Trí của Người thì con người trần gian cần phải được Người ban cho chính Thần Linh của Người là Thần Chân Lý nữa, một Thần Linh Người quả thực đã thông ban cho Giáo Hội qua các vị tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:22), họ mới có thể phần nào thấu triệt “tất cả sự thật” (Jn 16:13), thấu triệt “những mạc khải phi thường” mà đạt đến Thực Tại Thần Linh.

Ở bài đọc thứ hai, qua bức thư thứ hai gửi cho giáo đoàn Côrintô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho thấy hậu quả và thái độ của chính bản thân mình, một con người đã nhận được “những mạc khải phi thường”, những mạc khải được thánh nhân cho biết là “nghe thấy những lời khôn tả không ai có thể nói” trên tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:4). Hậu quả mà con người nhận được “những mạc khải phi thường” này phải chịu đó là, như đương sự thành thật chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “một cái gia đâm vào xác thịt, một thần của Satan làm tôi bầm dập để giữ cho tôi khỏi kiêu hãnh”. Và thái độ của con người nhận được “những mạc khải phi thường” này cần phải tỏ ra là “bằng lòng với nỗi yếu hèn, với bạc đãi, với buồn đau, với bách hại và các thứ khốn khó vì Chúa Kitô. Vì khi tôi bất lực là lúc tôi mạnh mẽ”. Thái độ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người không hề ở với Chúa Kitô ngay từ đầu đến cuối như Mathias, vị tông đồ được chọn thay cho Giuđa (x Acts 1:21-22), nhưng vẫn được gọi là Tông Đồ, tức thuộc về thành phần chứng nhân tiên khởi, thành phần phải hội đủ điều kiện được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho và trực tiếp sai đi, vì con người này cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình và sai đi (x Gal 1:12, 16; Acts 9:3-6, 13:2-3), thực sự là tinh thần của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, một người môn đệ sau khi nhận được những mạc khải phi thường thì vì Chúa mang đi chia sẻ, bất chấp mọi khó khăn thử thách.

Ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV năm B cũng nhắc đến sự kiện các môn đệ theo Chúa Giêsu về quê quán của Người, thành phần đi theo Người ấy không thể nào không chứng kiến thấy nỗi khổ tâm buồn phiền của Thày mình trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Thày, hay nói cách khác, tình trạng có vẻ thất bại của Thày, nhưng đồng thời các vị cũng chứng kiến thấy thái độ hăng say không nản chí của Thày, như cuối bài Phúc Âm nói tới, trong việc hoàn thành sứ vụ chứng nhân của Người về chính bản thân Người và về Cha của Người. Các môn đệ được Chúa Kitô tuyển chọn để sống sát bên Người không phải chỉ để nghe lời Người nói và thấy việc Người làm, mà còn để thấy được tinh thần sống của Người nữa hầu bắt chước mà làm theo, như Người khẳng định với các vị sau khi làm gương phục vụ qua việc rửa chân cho các vị trước Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:15).

Tóm lại, tất cả những gì phát xuất từ Chúa Kitô là Lời Nhập Thể đều là “những mạc khải phi thường”, những mạc khải trước hết được tỏ ra cho thành phần môn đệ của Người (x Mt 13:16-17), để họ có thể trở thành những chứng nhân của Thày (x Lk 24:48), thành phần sẽ được Người sai đi rao giảng ngay khi Người còn sống, như bài Phúc Âm tuần tới nói đến…

 

home Mục lục Lưu trữ